Tomas Tranströmer
Bắc Phong chuyển ngữ
Tomas Tranströmer[1], thi sĩ người Thụy Điển đoạt giải văn chương Nobel năm 2011
Tháng Tư và sự tĩnh mịch
Mùa xuân nằm hiu quạnh
Con mương tối mượt
trườn cạnh mình chẳng phản chiếu thứ gì.
Tất cả những vật tỏa sáng
là mấy đóa hoa vàng.
Mình thu vào bóng mình
như cậy vĩ cầm trong cái hộp đàn đen.
Điều duy nhất mình muốn nói
lấp lánh ngoài tầm với
giống mấy thứ bằng bạc
trong một tiệm cầm đồ
April and Silence
Spring lies deserted.
The velvet-dark ditch
crawls by my side without reflections.
All that shines
are yellow flowers.
I’m carried in my shadow
like a violin in its black case.
The only thing I want to say
gleams out of reach
like the silver
in a pawnshop.
Cảnh trong ánh dương
Mặt trời ló ra sau căn nhà
đứng giữa lộ
hà hơi vào bọn mình
với ngọn hồng phong.
Innsbruck mình phải lìa bạn.
Nhưng ngày mai
sẽ rực sáng một vừng dương
trong khu rừng xám, ngắc ngoải
nơi bọn mình phải tìm kế sinh nhai và sống.
Landscape with Suns
The sun emerges from behind the house
stands in the middle of the street
and breathes on us
with its red wind.
Innsbruck I must leave you.
But tomorrow
there will be a glowing sun
in the gray, half-dead forest
where we must work and live.
Giữa mùa Đông
Ánh lục
hắt ra từ áo quần mình.
Giữa mùa Đông.
Lanh canh tiếng trống đá băng.
Mình nhắm mắt.
Có một thế giới u tịch
có một khe rãnh
nơi những kẻ mãn phần
được chuyển lậu qua biên giới.
Midwinter
A blue light
radiates from my clothing.
Midwinter.
Clattering tambourines of ice.
I close my eyes.
There is a silent world
there is a crack
where the dead
are smuggled across the border
Tomas Tranströmer
Trích thi tập The Sorrow Gondola (Sorgegondolen)
dịch bởi Michael Griff và Mikaela Grassl; Green Integer Books xuất bản, 2010.
Bắc Phong chuyển ngữ.
[1] Tomas Tranströmer, sinh ngày 15 tháng 4 năm 1931 ở thành phố Stockholm, được coi là một trong những thi hào của thế giới. Ông cũng là một chuyên gia tâm lý đã từng làm việc với thiếu niên phạm pháp và người khuyết tật. Các thi tập của ông đã được dịch ra trên 50 ngoại ngữ. Ông viết cuốn Sorgegondolen sau lần bị đột qụy năm 1990 khiến ông nói năng bị nhiều trở ngại. Hơn 30,000 ấn bản của thi tập này đã được bán ra chỉ riêng trong xứ Thụy Điển của ông.