Người đàn bà và bầy chim sẻ

Posted: 16/08/2011 in Minh Nguyễn, Truyện Ngắn

Minh Nguyễn

1.
Tôi thường chọn cho mình chỗ ngồi trong một góc khuất. Từ đó vừa có thể nhâm nhi chút hương vị cà phê thơm tho buổi sáng, vừa có thể nhìn ngắm lối đi dưới lá qua các con đường yên tỉnh. Sống trong thành phố đã nhiều năm, tôi chưa thấy khu dân cư nào có sức hấp dẫn và quyến rũ đến vậy. Từ chỗ ngồi khiêm tốn ở quán cóc vĩa hè, với bàn ghế lên nước bóng loáng đến, những gương mặt chưa một lần gặp gỡ. Vậy mà chỉ cần chung bàn hoặc sau vài câu trao đổi, tưởng đã thân quen tự bao giờ. Tuy nhiên, điều đó chưa thể làm tôi quan tâm bằng sự xuất hiện bất ngờ nơi người đàn bà cùng với bầy chim sẻ trong mỗi buổi sáng sớm.

Để thỏa mãn cho tính hiếu kỳ, tôi buột lòng có mặt ở quán cà phê sớm hơn thường lệ. Hy vọng khám phá ra điều bí ẩn quanh chuyện người đàn bà và bầy chim sẻ.

Thấy tôi ngồi trầm tư trước tách cà phê nghi ngút khói. Ông chủ quán tỏ ra thân thiện, bước tới bên cạnh hỏi:

– Cậu có hẹn với ai chăng?

– Ông nghĩ vậy?

– Cứ nhìn cách cậu đứng ngồi không yên thế kia ai chẳng biết.

Từ đám cây lá rậm rạp bên khu biệt thự liên kế, tiếng kêu chíp chíp rộn rã do bầy chim ẩn mình trong tối vang lên. Tiếng kêu vô tình cắt ngang cuộc chuyện trò giữa ông chủ quán và tôi. Không hẹn, cả hai cùng quay nhìn ra phía sân, bắt gặp gương mặt phúc hậu của người đàn bà hiện ra sau mảng tối lờ nhờ. Bà ta lê từng bước chân lầm lũi, băng qua ngã tư vắng người để, kịp tới đứng dưới mái hiên dãy nhà bên khu biệt thự.

– Để làm gì? Tôi bối rối hỏi ông chủ quán.

– Vẫn là chuyện thường ngày.

– Là sao?

– Nghĩa là bà ta sẽ cho bầy chim sẻ háu đói, ăn một bữa no nê trước lúc trời sáng.

– Chim sẻ?

– Chúng xuất hiện, kêu ríu rít trên mái nhà vào mỗi buổi sáng.

– Chúng được cho ăn gì?

-.Thóc, từng nắm thóc được người đàn bà ném lên mái nhà nuôi chúng.

– Có phải một thú vui tiêu khiển nơi người lớn tuổi?

– Tôi cho là biểu hiện của một tấm lòng nhân ái.

Nhác trông thấy bóng người đàn bà cầm chiếc lon sắt đựng lưng thóc bước ra, bầy chim chộn rộn hẳn lên với những tiếng kêu chíp chíp cùng tiếng động lao xao phát ra từ trong vòm lá. Hẳn bầy chim đang đói ăn? Người đàn bà không mấy vội vã, đưa mắt nhìn qua phía dãy nhà liên kết lợp tôn fibro, quan sát trong giây lát. Sau đó đặt tay vào chiếc lon, vốc từng nắm thóc ném lên mái nhà, gọi bầy chim bay đến. Mới đầu, vài con tỏ ra thận trọng chỉ dám đứng nhìn từ xa với cặp mắt láu liên, trong khi những con dạn dĩ bay bổ nhào từ trên cây xuống như một màn trình diễn, dùng chiếc mõ cứng gắp vội vàng hạt thóc trước khi bay vọt trở lên cao.

Tôi nhìn người đàn bà thán phục:

– Quả là con người nhân hậu!

– Cậu nhận xét cũng không tệ.

– Bà ta . . . ?

– Còn nhiều chuyện kể ra chưa chắc cậu đã tin.

– Còn bí mật nào hơn chuyện chim sẻ?

Ông chủ quán lợi dụng lúc chưa có khách đông, kéo ghế ngồi cạnh tôi, kể trong sự hào hứng. Rằng người đàn bà đáng tội, sống thui thủi chỉ một mình trong căn nhà rộng thênh. Có lẽ vì sợ hãi trước cuộc sống đơn chiếc, bà ta mang về nhà nuôi một vài con vật để sớm tối bầu bạn, làm vui nhà cửa. Hơn nữa, bà là người sống từng trải nên không mấy tin vào bất kỳ ai, cho dù là con cháu hoặc họ hàng.

– Có nghĩa bà ta không có chồng con gì?

– Có chồng.

– Ông ta bận làm ăn xa hay sao?

– Đã mất cách đây vài tháng.

– Đó là nỗi buồn khiến người đàn bà phải thức dậy từ sớm để lo cho bầy chim?

– Không chỉ có bầy chim thôi đâu.

– Ngoài ra còn có gì khác chăng?

– Một con mèo.

– Đâu có gì lạ!

Theo lời ông chủ quán. Con mèo to chẳng khác chi chú lợn con, nếu như bộ lông mượt mà của nó không phải màu sô-cô-la. Điều này ông nhớ rất rõ, nhờ lần mang cà phê đến phục vụ tận nhà người đàn bà. Suýt chút nửa ông đã đánh rơi tách cà phê khi trông thấy con vật mập ú đến lạ thường, được bà chủ yêu quí nâng niu trên đôi tay. Quá ngạc nhiên, ông rắp tâm tìm hiểu xem bằng cách nào, người đàn bà biến con mèo thành con vật dị thường? Sau đó, ông để ý thấy ngày nào từ chợ về, người đàn bà cũng mua thật nhiều cá. Cá kho, cá chiên dành cho chủ cũng là món khoái khẩu của mèo. Ngày qua ngày, mèo nhờ được cho ăn uống đầy đủ nên đã biến dạng, không còn nhận ra con mèo xinh đẹp thuở ban đầu. Càng ngày nó càng trở nên xấu xí, nặng nề từ dáng đi cho đến thế nằm. Suốt ngày mèo nằm ườn trên sofa, lim dim hai mắt hoặc liếm chiếc mũi ướt đỏ màu son, chờ cho bà chủ ngồi xuống ghế, tức thì mèo vươn vai đứng lên, đi tới dụi đầu vào chân nhắc nhở sự có mặt.

Ngoài sân. Sau vốc lúa cuối cùng ném lên mái nhà. Người đàn bà nán lại, nhìn bầy chim tranh nhau mổ từng hạt thóc một cách sung sướng. Tiếng lộc cộc, lộc cộc vang lên từ chiếc mỏ cứng gỏ xuống mái fibro, nghe như có ai đó đang chơi nhịp trống bên khúc nhạc vui tai.

2 .
Như mọi buổi sáng. Tôi vẫn cứ là người khách bước tới quán cà phê đầu tiên, bất kể trời mưa hay nắng. Không ngờ, chính nhờ thói quen đó đã giúp hình thành nên mối quan hệ giữa tôi và ông chủ quán ngày thêm mật thiết. Có lẽ, cũng nhờ vậy mà câu chuyện về người đàn bà và bầy chim sẻ có thêm phần hưng phấn?

– Chào ông chủ buổi sáng. Tôi bắt tay người chủ quán ngay trước cửa hàng.

– Chào cậu.

– Người đàn bà bí ẩn của chúng ta hôm nay thế nào rồi?

Sở dĩ tôi hỏi ông chủ quán câu hỏi đó, vì trước đây vài hôm tôi đã phải chứng kiến sự tuyệt vọng nơi người đàn bà, đứng dưới mái hiên dãy nhà liên kế, chờ đợi mõi mòn bầy chim sẻ xuất hiện trong suốt buổi sáng.

– Bầy chim vẫn bặt âm vô tín. Ông chủ quán thở dài thay cho câu trả lời.

– Tôi muốn hỏi thăm tình hình sức khỏe của người đàn bà chứ chưa nói đến chuyện chim chóc.

– Nghe hàng xóm kể lại, bà ta nằm lì trên giường khóc suốt .

– Tội nghiệp! Không khéo bà ta đổ bệnh mất?

– Hình như, trong cơn mê sảng người đàn bà nghe tiếng bầy chim đập cánh xuống mái nhà kêu cứu.

– Có chuyện đó thật sao?

– Tôi chỉ nghe loáng thoáng vậy thôi.

– Chắc chỉ là tin đồn?

– Không chỉ có thế, mấy mụ buôn dưa lê còn thêm thắt vài chi tiết ly kỳ, biến câu chuyện thêm vẻ liêu trai hơn: “Đêm qua, trong lúc đang thiêm thiếp bên giấc ngủ, người đàn bà nhìn thấy hai con chim sẻ bay từ ngoài vào, đậu xuống ngay bên cạnh. Thay vì, cất tiếng kêu chip chip như mọi khi, lần này chúng dùng mõ cắn chặt lấy tay áo bà giật mạnh, hình như muốn bà đi theo chúng tới nơi nào đó? “

– Tôi không mấy tin vào chuyện báo mộng hay đại loại như vậy.

– Người đàn bà tỉnh giấc. Không biết mình ở đâu giữa trạng thái thực – hư lẫn lộn.

– Ông có nghi ngờ chi không?

– Ồ! Suốt ngày tôi bị dính vào cái quán quái quỉ này nên mụ hẳn cả người rồi. Thú thực, ngoài mấy cái tách, cái dĩa, cái phin cà phê ra; cho dù trời đang sập đến đít đi nữa, tôi cũng chẳng hay biết gì.

– Dù sao ông cũng là “tai mắt“ của khu phố văn hóa này?

– Cậu vu khống tôi là công an, lảnh lương nhà nước không bằng?

– Ông chớ có hiểu lầm người bạn tốt này. Ý tôi . . .

– Là sao?

– Quán cà phê của ông lúc nào chả đông khách. Chỉ cần sáng nào lỡ bị chột bụng, đến muộn chút xíu thôi, có mà đứng chờ đến mỏi chân. Chưa kể một số chuyên gia bình luận “tám” (*) chuyện các câu lạc bộ bóng đá chưa đủ, còn cà kê dê ngổng vòng quanh thế giới không biết chán thì, còn chỗ đâu cho dân ghiền cà phê bận việc đến sau?

Biết tôi cố ý trêu chọc, ông chủ quán cười, nói:

– Nếu tôi là cậu . . .

– Thì đã sao nào?

– Tôi sẽ giúp người đàn bà tội nghiệp kia một cách tận tình.

– Bằng cách nào?

– Thì cậu chẳng từng khoe mẻ quen biết nhiều nơi, nhiều người lắm sao. Việc cỏn con đến vậy, không lẽ tư vấn cho bà ta thuê mướn ba cái dịch vụ tìm kiếm lem nhem cho thêm phần tốn kém? Đành rằng, trong thành phố có rất nhiều thứ dich vụ. Nào là dịch vụ làm gia sư, làm luận văn tốt nghiệp, làm thí sinh thi hộ, làm chồng – vợ hờ, làm giấy tờ đáo hạn ngân hàng; cho đến dịch vụ nham nhở khoan cắt bê – tông, rút hầm cầu, tìm kiếm chó mèo . . . tất cả đều có mặt trên khắp các cột điện hay bất kỳ bờ tường đến xó xỉnh nào.

– Thôi đi ông ơi! Quen thì có quen, biết thì cũng có biết, nhưng cả một bầy chim như thế biết gỏ cửa nhà ai mà nhờ, mà chuộc?

Chuộc! Tôi buột miệng nhắc tới từ ”chuộc” một cách vô tình vì, từ ngữ này mới đầu nghe thật chói tai đối với người dân lương thiện; khiến ai có lòng từ bi bác ái dễ sinh ra nỗi giận. Không ngờ, lâu ngày nó dần trở nên quen thuộc, bởi nhờ có “chuộc” mà nhiều đồ vật bị mất cắp, dù cho khó khăn đến mấy vẫń có cơ hội tìm lại được. Và, thử hỏi nếu như xã hội không còn “chuột” đục khoét chỗ này chỗ kia; hẳn thế giới đã trở nên tốt đẹp, không còn tìm đâu ra tệ nạn tham những này nọ. Xã hội yên lành, bọn sâu dân mọt nước mất đất hoạt động, lấy đâu ra nhiều tiền đàn đúm mỗi ngày trong các nhà hàng sang trọng, trong mấy quán nhậu có nhiều em út. Lấy đâu ra trộm cắp, giựt dọc đến nổi phải đẻ ra dịch vụ xin chuộc đồ vật của chính mình bị đánh cắp. Lấy đâu ra những lời nhắn tin như đùa trên báo chí, với những lời lẽ van xin gần với lạy lục “xin được hậu tạ theo luật giang hồ “.

Đang suy tưởng mông lung, tôi giật mình khi nghe ông chủ quán kêu toáng lên.

– Ôi! Trời ơi! Không khéo là bọn này . . .?

Tôi đoán được ý ông chủ quán, bèn nói đở lời.

– Có phải ông nhắc tới bọn sát thủ chuyên nghề bẫy chim?

– Hà! Hà! Không phải bọn nó thì còn ai vào đây. Hèn gì, trước cửa đình chùa ngày nào cũng thấy người ta bày bán rất nhiều loại chim.

– Không chỉ có chim ở trước cửa chùa mà, còn thấy cả trong thực đơn nhà hàng với nhiều món chim đặc sản nữa.

– Trời ạ! Tôi tưởng người ta mua chim về nuôi trong nhà, dạy cho chúng nói cho vui.

– Hôm nào tôi mời ông đi nhậu thì sẽ rõ.

– Không! Cám ơn cậu. Tội chết.

– Vậy những con chim mang thả phóng sinh thì không có tội?

– Cậu hỏi nghe lạ chưa. Chim phóng sinh thả ra là để chúng tự do bay khắp nơi?

– Tự do đâu chẳng thấy. Chỉ thấy sau vài ngày bị nhốt chật cứng trong lồng, tới khi được mang đi thả phóng sinh đều bị què quặt, bay hết muốn nổi, đành rớt xuống đất làm mồi cho bọn chó mèo hoang.

– Cậu diễn tả nghe ghê bỏ mẹ.

– Theo tôi, đã bị bắt thì đàng nào cũng chết, thà lên chảo làm món rô-ti cho mọi người thưởng thức còn hơn bị chó mèo ăn sống nuốt tươi.

Nghe tôi phán một câu xanh dờn. Suýt chút nữa ông chủ quán đầy thiện tâm đã phải “té” cà phê ra quần. May sao ông vẫn giữ được chút bình tỉnh, nhờ câu chửi dung tục đúng giọng Hà Nội năm tư.

– Đèo mẹ! Cậu ăn nói dỡ tệ.

– Tôi nghĩ, thế giới này không nên có những người như ông, như tôi, như mấy thằng bán nhà hàng, như mấy thằng bán chim.

– Tại sao?

– Tức, không ai có nhu cầu thì chẳng cần tới người cung. Lúc đó chả còn con vật vô tội nào bị săn đuổi, sát hại như hiện nay.

Đột nhiên ông chủ quán vừa nhớ ra điều chi nên quát như ra lệnh:

– Tôi cấm cậu không được đem chuyện này kể lại với ai.

– Vì lý do gì?

– Tôi sợ người đàn bà tội nghiệp kia mà nghe được . . .

– Thì đã sao?

– Bà ta có thể bị hóa rồ mất.

Chưa kịp nói thêm lời nào tôi bỗng trông ra bóng người đàn bà xuất hiện qua mảng tối. Tội nghiệp! Mới mấy hôm, kể từ khi bầy chim mất tích, nét mặt người đàn bà trông có phần tiều tụy thấy rõ. Bà ta đang cố lê từng bước chân nặng nề tới đứng dưới mái hiên nơi dãy nhà liên kế. Hết dõi mắt nhìn lên vòm cây, bà ta lại quay nhìn sang mái tôn fibro, hy vọng bắt gặp những sinh vật bé nhỏ đáng yêu có đôi mắt mang hình hai hạt đậu đen.

Để trả lời cho sự kỳ vọng đáng thương nơi người đàn bà, không thấy gì khác hơn ngoài những âm thanh của gió, của tiếng kêu khàn giọng côn trùng, của tiếng kêu chíp chíp nghe tức tưởi nơi bầy chim vô tội.

3.
Một tuần nữa trôi qua. Những hạt thóc được ném lên mái tôn fibro hôm nào, giờ đã nẩy mầm thành một đám mạ non để rồi, cứ sau mỗi cơn gió thoảng qua, tức thì đám mạ kia biến thành một điệu luân vũ, lấp loáng những màu sắc. Tiếc thay, trên cái nền mởn xanh đằm thắm kia, thiếu vắng tiếng kêu chíp chip qua bầy chim sẻ, gây xôn xao một góc trời trong mỗi buổi sáng.

Lạ! Kể từ sau ngày bầy chim đột nhiên biến mất. Cuộc sống người đàn bà bị xáo trộn, đổi thay một cách khó hiểu. Thay vì nghỉ ngơi, chăm sóc chú mèo vốn được yêu quí, người đàn bà đã thuê hẳn cho mình chiếc xe ôm. Mỗi sáng, chở bà ta đi đâu đó cho đến tận xế trưa mới quay về. Điều khác thường diễn ra hàng ngày, đến con mèo cũng đánh hơi được sự bất thường nơi chủ nhân nên, lặng lẽ tìm tới xó nhà ngồi, gặm nhắm nỗi buồn trên đôi chân rung rẩy.

Đúng vào lúc kim đồng hồ chỉ chín giờ sáng. Người đàn bà xuất hiện trước hiên nhà với nón lá đội đầu, khẩu trang che kín mặt; leo ngồi phía sau xe ôm cho tài xế chở đi. Do có chủ ý từ trước, tôi vội bỏ dở tách cà phê đang uống, lẳng lặng đứng lên đi lấy xe, chạy đuổi theo phía sau làm chiếc đuôi bám sát người đàn bà.

Sau một hồi chạy vòng vo qua mấy con phố. Gã lái xe được lệnh dừng lại trước dãy ki-ốt chuyên bán các loại chim chóc, chó mèo. Thấy khách bước đến là phụ nữ có gương mặt phúc hậu cùng với dáng vẻ bề ngoài sang trọng. Nhiều chủ cửa hàng chẳng tiếc lời mời chào một cách vồ vập. Không vội vàng, không để lộ ý định, người đàn bà đi rảo qua khắp lượt các gian hàng. Bước tới bất kỳ nơi nào, bà ta cũng dừng lại ngắm nghía khá lâu trước những chiếc lồng nhốt đầy chim. Bà ta quan sát tỉ mỉ, lắng nghe từng tiếng kêu của chúng, tưởng tượng ra bầy chim do chính tay mình bón mớm cho chúng từng lon thóc hôm nào. Những tiếng kêu chíp chíp nghe giống như lời rên rỉ, cầu cứu phát ra từ những sinh vật đáng thương đang bị nhốt trong những chiếc lồng sắt chật chội hôi hám. Cầm lòng không đậu trước cảnh cá chậu chim lồng, người đàn bà đánh rơi những giọt nước mắt bên sự thật phũ phàng.

Quay về phía cô chủ trẻ đang có mặt ngay cạnh bên. Người đàn bà hỏi:

– Cô bắt những con chim này có khó lắm không?

Cô chủ trẻ cười thật thà đáp:

– Tôi chỉ buôn bán. Việc gom bắt đã có mối lái tự động mang đến chào mời.

– Hàng giao mỗi ngày hay phải chờ?

– Muốn bao nhiêu cũng có.

– Chim ở đâu ra mà ngày nào cũng có người cung cấp?

– Dân chuyên nghiệp họ “giăng bẫy” ở khắp mọi nơi.

– Đó chẳng phải là nguyên nhân làm hủy hoại môi trường hay sao?

– Nói như bà, bọn buôn bán chúng tôi đã giải nghệ từ khuya.

– Được vậy cũng tốt. Còn trẻ thiếu chi việc làm – lầm tưởng cô gái nghe lời mình, người đàn bà nói tiếp – tôi quen nhiều công ty, xí nghiệp, thích làm ở đâu tôi nói giúp cho.

– Lương cao lắm phải không bà ?

– Hơn triệu bạc.

Cô gái bĩu môi, nói:

– Bà ơi! Lương lậu kiểu đó chỉ đủ cho con húp cháo! Con còn cha mẹ già và mấy đứa em nhỏ.

– Húp cháo là thế nào. Nhiều người đang cố chạy chọt xin đi làm còn không được huống hồ.

Nghe người đàn bà ăn nói hồn hậu, cô gái không nở nói lời chanh chua, hỏi:

– Sắp đến Vu Lan rồi, bà mua chim về làm phóng sinh đi.

– Uả! Sắp đến rằm tháng bảy rồi sao?

– Bà không thấy mấy hôm nay chùa chiền người ta lo sửa soạn cho mùa lễ báo hiếu à.

– Mấy hôm rày tôi bận lo nhiều việc quá nên không chú ý đến ngày tháng.

– Vậy bà có phải là chủ nhà hàng?

– Sao. Nhà hàng cũng tìm tới đây để mua gì?

– Thì họ vẫn mua chim sẻ về cắt tiết, lấy máu pha rượu uống bổ dương hoặc chế biến ra các món ăn đặc sản.

Lần đầu tiên người đàn bà nghe nói đến món chim nướng, chim rô-ti. Món ăn được giới thiệu trên menu nhà hàng hẳn hoi. Chỉ nghe cô gái kể thôi, cũng đủ làm cho bà ta nổi rần gai ốc, ớn lạnh cả sương sống. Bà nhớ lại, kể từ khi người chồng quá cố, bà chưa hề đặt chân tới chốn đông người bao giờ. Vì vậy, khó khăn lắm bà mới hình dung ra được cảnh tượng, từng chú chim vô tội bị cắt tiết pha rượu, bị vặt trụi lông đem nướng trên bếp than đỏ lửa, kêu nghe xèo xèo đến phát ói. Chỉ tưởng tượng tới mùi mỡ, mùi thịt xộc lên mũi đủ làm cho người đàn bà lợm giọng, nôn thốc nôn tháo dẫn đến hôn mê, phải gọi cấp cứu chở vào bệnh viện.

4.
Buổi chiều kịp đến. Trong lúc người đàn bà đứng trước sân chỉ dẩn cho chị giúp việc, quét dọn trên mái tôn fibro thì, cũng là lúc điểm bán thú cho nhân viên mang lồng chim có đến trăm con tới giao. Hàng là những chú chim tội nghiệp bị nhốt trong chiếc lồng sắt B 40 chật chội. Theo lệnh người đàn bà, chiếc lồng được mang đặt dưới mái hiên dãy nhà liên kế. Nơi trước đây mỗi sáng, bà vẫn hay bê lưng lon thóc đi từ nhà bước ra, vốc từng nắm thóc nhỏ trong lòng bàn tay, thong thả ném lên mái nhà cho bầy chim háu đói, bay đến mổ lộp bộp từng hạt thóc nghe vui tai.

Mới đầu bầy chim như lạ chỗ, hoảng hốt cất lên tiếng kêu nghe chíp chíp đồng thời bay tán loạn, nhưng nhác trông thấy bóng người đàn bà bước đến gần, chúng tỏ ra hiền lành, im tiếng với những chiếc đầu ló ra sau các khe hở chiếc lồng. Nhìn những đôi mắt đen láy cùng với chiếc miệng há rộng, hé lộ sau chiếc mỏ sắc lẹm đòi ăn, khiến cho người đàn bà động lòng từ tâm, quay vội vào nhà trong mang ra lon thóc thật to. Đánh hơi được mùi thức ăn quen thuộc, bầy chim nhao nhao tranh ăn, vừa thi nhau đập cánh kêu soành soạch vào thành lồng, vừa cất tiếng kêu để gây sự chú ý.

Từng nắm thóc từ bàn tay người đàn bà nhân hậu ném ra cho bầy chim, chỉ loáng một cái, đến những hạt thóc cuối cùng rơi vãi quanh chiếc lồng cũng không còn tìm thấy một hạt thừa. Thích thú trước hình ảnh sinh động đang diễn ra nơi bầy chim, người đàn bà cảm thấy sung sướng như được an ủi và xoa dịu nỗi cô đơn phần nào.

Tôi đang bận tay trên máy tính, chợt nghe tiếng chuông điện thoại gọi giật ngược.

– Tôi nghe.

– Cậu hả? Giọng ông chủ quán nói qua điện thoại.

– Dạ! Có chuyện gì gấp lắm hay sao ông?

– Cậu đến ngay đi.

– Muộn hơn có được không. Tôi đang phải gửi thư điện tử cho người thân?

– Cậu có thể dừng tay một lát mà?

– Nếu ông muốn tôi sẽ tới ngay.

– Đến ngay nhé! Có chuyện lạ đang đơi cậu đấy.

Trên đường lái xe đi, tôi thật sự cảm thấy hối hận vì, chưa kịp kể cho ông chủ quán nghe chuyện tôi đã lặng lẽ theo sau người đàn bà ra tới điểm bán chim vào buổi sáng sớm nay.

Vừa quẹo vào con hẻm. Từ xa, tôi phát hiện ra đám đông người hiếu kỳ đang kéo nhau đi về phía quán cà phê. Hẳn đây là chuyện lạ lẫm mà ông ta muốn tôi có mặt để chứng kiến? Tôi dừng xe bên đường, rẻ đám đông bước tới đứng đối mặt với buổi chiều đang hắt những tia nắng yếu ớt cuối ngày từ phía chân trời. Và, trong sự ồn ào bàn tán, chen lấn giữa đám đông người tụ tập, tôi kịp nhận ra người đàn bà phúc hậu đứng dưới tàn cây điệp đang trổ một mùa hoa vàng chóe. Trước mặt bà ta là một chiếc lồng sắt nhốt đầy chim, nổi lên như bức tranh tỉnh vật tìm ẩn nội dung tâm linh trùng khớp với một mùa Vu Lan báo hiếu đang tới gần. Đột nhiên, tôi nhớ ra câu chuyện huyễn hoặc do ai đó kể về người đàn bà cùng với hai chú chim sẻ. Chuyện kể, khi người đàn bà đang thiêm thiếp trên giường bệnh, không biết từ đâu có hai chú chim sẻ bay đến đậu trên cánh tay. Chúng buồn rầu cất lên những tiếng kêu chíp chíp nghe buồn não ruột, đồng thời đánh rơi những giọt nước mắt thương cảm lên gương mặt nhân hậu, thánh thiện của người đàn bà. Tức thì, bà ta choàng tỉnh đứng bật dậy từ trên giường bệnh, bước theo hai chú chim ra đứng tì tay trên thành cửa sổ; hít thở bầu không khí trong lành trước mặt.

Như chẳng hề quan tâm tới sự việc vây quanh, người đàn bà đã biến buổi chiều trở nên ý nghĩa qua việc đưa tay mở rộng cửa chiếc lồng chim. Từ trong ngục tù vây hảm, bầy chim lao xao nhảy nhót, đua nhau cất lên tiếng kêu chíp chíp bày tỏ sự vui mừng. Với tấm lòng nhân hậu, người đàn bà thò tay giữ lấy từng chú chim xấu số đang bị nhốt trong lồng, nâng cao lên khỏi đầu, trước khi thả chúng về với vùng trời tự do.

Cho đến bây giờ, trong góc khuất tâm hồn tôi mới thực sự vỡ òa bài học vỡ lòng về lòng nhân ái do người đàn bà mang lại. Từ đó, tôi cảm nhận được thứ hạnh phúc lớn lao mà trong cuộc sống bon chen từng ngày, hiếm có người chịu khó dừng chân ngắm nhìn buổi chiều có thực qua hình ảnh người đàn bà với bầy chim sẻ phóng sinh ./.

Minh Nguyễn
Nguồn: Tác giả gửi

Đã đóng bình luận.