Thành phố không còn hoạ sĩ

Posted: 03/09/2011 in Tiêu Dao Bảo Cự, Truyện Ngắn

Tiêu Dao Bảo Cự

Hoạ sĩ lên cơn đau tim và đã ngã xuống bất tỉnh khi tình cờ nghe một chương trình của đài phát thanh thành phố. Trong mục gọi là “Ý kiến người làm chủ”, không nghe giới thiệu người viết hoặc đề bài viết, tự dưng ông nghe người ta nhắc đến tên mình.

“… Họa sĩ là người nơi khác mới đến thành phố, tuy có vợ con, ông đã quan hệ bất chính với vợ một cán bộ ở điạ phương…”

Ông choáng váng, xây xẩm mặt mày, mồ hôi nhỏ từng giọt trong cổ áo dù trời đang lạnh. Ông cố trấn tĩnh để nghe tiếp. Bài viết nhảy qua nói đến việc thiếu phụ đó lại quan hệ với một cán bộ khác, người đang bị kỷ luật vì gây ra những vụ tai tiếng ở địa phương này. Rồi người ta trích dẫn cả thư từ riêng của họa sĩ để đưa vào bài viết. Ông không hiểu gì cả. Đoạn cuối bài viết nêu rõ cả chi tiết người thiếu phụ kia đã có một đứa con với ông.

Ông không chịu đựng nổi nữa. Ông chồm tới để tắt máy thu thanh nhưng cảm thấy quả tim mình bỗng nhói lên, co thắt liên tục và hơi thở tắt nghẹn. Ông gục xuống trên mặt bàn và lăn nhào ra khỏi ghế.

Gần cuối đời, họa sĩ đến định cư ở thành phố Sương Mù. Ông tự cho đó là diễm phúc của đời mình. Ông là kẻ đã đi nhiều, vẽ nhiều, hầu như khắp mọi miền của đất nước. Đôi mắt tinh tường của ông đã ngắm bao nhiêu vẻ đẹp hùng tráng, thơ mộng cũng như những cảnh tiêu điều, đau thương của một quê hương hào hùng và khốn khổ, cả trong thiên nhiên và lịch sử, tâm hồn của dân tộc. Tất cả đã lắng đọng và ngân vang trong hàng ngàn tác phẩm của ông. Nhưng càng về cuối đời, ông càng nhận thấy những tác phẩm đó, dù được trưng bày nhiều nơi, trong và ngoài nước, ông cũng đã từng kiêu hãnh về chúng, lại chưa phải là tác phẩm đích thực của chính mình. Ông vẫn là kẻ trên đường tìm kiếm và chưa đi tới đích.

Lần đầu tiên đến thành phố này, ông đã bị thu hút ngay bởi vẻ kỳ diệu, có phần bí hiểm của một cảnh sắc thiên nhiên lạ lùng. Trước đó, ông đã nghe người ta ca tụng nhiều nhưng ông vẫn chưa hình dung, cảm nhận được sức lôi cuốn kỳ bí và âm thầm của nó như lần đầu tiên nhìn cảnh tượng huy hoàng của rừng thông trên ngọn đèo trước lúc vào thành phố. Thực ra đó là một cảm giác ông chưa nắm bắt được rõ ràng. Mãi cho đến bây giờ, sau một năm ở thành phố, cảm giác đó vẫn còn, như một sự bất lực, một nỗi khắc khoải lâu dài trước cái đẹp, thiên nhiên và nghệ thuật.

Ông là họa sĩ từng được học hành chu đáo, có điều kiện nghiên cứu phong cách của nhiều trường phái hội họa đông, tây, kim, cổ, bản thân ông cũng đã từng thể nghiệm nhiều bút pháp, xu hướng, có tác phẩm được đánh giá cao nhưng rồi ông vẫn cảm thấy mình còn xa mới đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật này. Phải chăng hội họa là sự hòa điệu của tâm hồn và ngoại cảnh bằng đường nét và sắc mầu nhưng ông chưa tìm ra được hòa âm lý tưởng. Càng lớn tuổi, nhất là khi về thành phố Sương Mù này, ông cảm thấy gần gũi hơn với phong cách hội họa phương đông, nhất là tranh thủy mặc. Ông hiểu tại sao có người suốt đời chỉ vẽ trúc, chỉ bằng một mực mầu đen duy nhất, lại đạt đến độ vi diệu của nghệ thuật mà con người bao nhiêu thế kỷ sau vẫn còn ngưỡng mộ. Ông bắt đầu tin rằng chỉ có thể tìm thấy hội họa đích thực trong thiên nhiên chứ không thể tìm ở đâu khác.

Chưa bao giờ ông được đắm mình trong thiên nhiên đầy đủ như ở đây. Với chiếc ba lô nhỏ đựng đồ nghề sau lưng, ông đi lang thang suốt ngày trong thành phố. Hầu như mỗi ngày ông đi bộ không dưới hai mươi cây số, bất kỳ thời tiết nào. Ông đi để chiêm nghiệm thiên nhiên, thỉnh thoảng mới dừng lại vẽ vài nét phác thảo lên tập giấy dó mang theo. Gần suốt một đời cầm cọ, với tay nghe điêu luyện, ông ký họa nhanh như chớp. Nhưng vẻ đẹp của thiên nhiên nơi này thật khó nắm bắt. Hồ, rừng cây, núi, mây, trời, sương, hoa… nào có lạ gì đối với bàn tay lão luyện và cuộc đời từng trải của ông. Nhưng ở đây, mọi cái tưởng chừng như lắng đọng lại không hề yên tĩnh, từng lúc lại mang dáng vẻ và tâm hồn khác nhau. Có lúc, nhất là khi chiều tà, hồ, núi, mây, trời chỉ là những biên giới mờ ảo, bỗng chốc hòa lẫn vào trong sương. Trong một phút, vừa ký họa xong, ông đã thấy cảnh sắc khác đi. Ông vẽ lại lần thứ hai nhưng điều ông vừa ghi lại đã không còn. Sau vài lần như thế, ông hiểu mình không thể vội vàng. Biết bao nhiêu tác phẩm, kể cả thơ, văn, nhạc, họa, nhiếp ảnh cố mô tả và ca ngợi thành phố này nhưng đã có mấy tác phẩm thành công, phần lớn chỉ là sự sao chép máy móc, nhợt nhạt hoặc lời ngợi ca sáo rỗng. Ông tự hứa sẽ dành mười năm – thời gian cuối đời ông hi vọng còn sống và làm việc được – để thâm nhập và vẽ về thành phố này. Ông hi vọng đó sẽ là những tác phẩm hội họa đích thực ở đỉnh cao mà ông sẽ cống hiến cho đời.

Điều làm ông ngạc nhiên là ở một thành phố như thành phố này, thành phố tĩnh lặng giữa thiên nhiên xinh đẹp, thành phố của hội họa, lại rất ít họa sĩ và hầu như không có ai nổi tiếng. Ở các bộ môn nghệ thuật khác cũng thế. Đáng lý phải là “đất lành chim đậu”. Hoặc nói khác đi, thành phố này phải là nơi sản sinh các nghệ sĩ tài năng vì thiên nhiên ở đây chính là một nghệ sĩ lớn, một bà mẹ tài hoa nhan sắc tuyệt vời. Ngay người dân thành phố cũng như chưa quen công việc của các họa sĩ. Khi ông dừng lại bên hè phố phác thảo các ký họa, nhiều người xúm lại xem, không phải chỉ có trẻ con, hỏi ông đủ thứ linh tinh, làm lắm lúc ông mất hết hứng thú. Có lần ông nhận lời vẽ tranh làm phụ bản cho một tạp chí văn nghệ ở đây. Ông vẽ một cây thông cụt ngọn và một tháp chuông nhà thờ dáng như một cô gái đứng đơn độc trong chiều tà đẫm sương, một hình ảnh ông rất thích thú vì vẻ độc đáo của nó. Sau khi tạp chí phát hành, ông nghe nói mấy vị có chức quyền đã phê phán ông bôi bác thành phố và có ý xuyên tạc về chính trị. Thành phố được mệnh danh là “ngàn thông” mà ông chỉ vẽ một cây cụt ngọn trơ cành. Thiếu gì cái tiêu biểu mà ông lại đưa ra tháp chuông nhà thờ buồn bã trong sương. Tạp chí bị đe dọa cấm phát hành vì một số bài và cả vì bức tranh của ông. Ông ngán ngẩm và lờ mờ hiểu được lý do tại sao không có nghệ sĩ nào có tầm cỡ xuất hiện trên mảnh đất này. Họ không bị thui chột thì cũng sẽ bỏ đi.

Thực ra ông không quan tâm đến chính trị. Từ ngày còn trẻ ông đã là một đảng viên nhưng sau đó ông xin ra khỏi đảng để có thì giờ cống hiến hết mình cho nghệ thuật. Khi nghe một người quen ở đây – một nhà văn – bị khai trừ đảng vì đấu tranh chống tiêu cực nhưng lại bị tiêu cực chống, ông đã đến chúc mừng người bạn được “giải phóng”. Theo ông, nghệ thuật phải phi đảng, phải vươn lên để đối mặt với những gì nhân loại nhất, trường cửu nhất. Tuy nhiên, trong cuộc sống, khi phải nói chuyện với công chúng hay trả lời phỏng vấn trên truyền hình, ông bao giờ cũng bắt đầu bằng việc ca ngợi đảng. Đó là sự giả dối ông phải chấp nhận để có được đôi chút tự do trong xã hội này.

Ông là một họa sĩ khá thành đạt, cả về phương diện tài chánh. Đó là may mắn lớn cho ông. Ông biết có bao nhiêu nghệ sĩ không có tiền mua sơn, cọ, vẽ tranh xong không có khung kính để lồng, ngay cả lúc tổ chức triển lãm. Ông thuê dài hạn một căn phòng ở một nhà khách yên tĩnh để sáng tác. Tuy nhiên, ngay lúc ở nhà, có lúc ông cũng không được yên ổn để miệt mài với tác phẩm. Một số người mới quen, phần lớn là các bà, đến nhờ ông vẽ chân dung. Hình như đây là một mốt mới. Vả lại, tên tuổi của ông làm cho họ hãnh diện khi treo bức chân dung trong phòng khách. Ông đã nể nang, chiều ý một vài người nhưng sau đó ngán ngẩm. Phải ngồi ngắm nghía bộ mặt son phấn lòe loẹt cứng đờ hoặc làm duyên một cách kệch cỡm, ông thật sự ngấy đến tận cổ. Ông đã từng vẽ nhiều chân dung nhưng đó là chân dung nghệ thuật. Những khuôn mặt thánh thiện hay hằn nét khổ đau, những ánh mắt long lanh, mơ huyền hay ảo não, những mái tóc óng ả chảy như suối hay bão bùng sóng biển… Những bức chân dung ghi dấu vẻ đẹp, hạnh phúc, khổ đau, chiều sâu và khát vọng của con người. Bây giờ ông ít thấy những chân dung như thế. Phần lớn quanh ông là những bộ mặt thỏa thuê, hợm hĩnh hay mệt mỏi, lo toan. Đó là những khuôn mặt đời của thời đại mà ông không sao quen được.

Ông cũng đã từng vẽ tranh khỏa thân với nhiều người mẫu vào những năm trước. Gần đây ông không vẽ tranh khỏa thân nữa dù ông vẫn có tiền để thuê người mẫu. Có lẽ tuổi tác làm ông cảm thấy mình bất lực – một thứ bất lực tâm lý – trong một mặc cảm lạ lùng. Dĩ nhiên, đối với họa sĩ, người mẫu khỏa thân là một vẻ đẹp nghệ thuật. Nhưng ông vẫn thấy dấy lên một niềm khao khát và cảm thấy cả sự bất lực của mình trước vẻ đẹp nghệ thuật lẫn sự bất lực của cơ thể trong tuổi già. Ông trở nên tức giận một cách vô cớ khi đứng trước người mẫu và đã thôi vẽ tranh khỏa thân từ năm năm trước. Mặc cảm về sự bất lực dầy vò ông , làm ông đâm ra ghen tị với đám thanh niên nam nữ. Nhìn chúng nó mặt mũi tươi rói hồng hào, ôm nhau dạo chơi cười nói trên đồi, ông phát run lên và ngoảnh mặt đi. Ông đau đớn nghĩ thầm: Ta già rồi. Ta đâu còn được như chúng nó. Thời thanh xuân của ta vĩnh viễn đã qua. Ông tức giận rồi lại xấu hổ vì sự ghen tị của mình. Chao ôi, sao ta lại vô lý, nhỏ mọn đến mức đê tiện như thế.

Cho đến một hôm, tình cờ ông gặp một cô gái trên phố. Cô đang đứng trước cửa nhà, mặc một bộ quần áo cánh đơn giản màu đen tuyền. Bây giờ ít ai mặc mầu đen, phần lớn quần áo đều có mầu sắc sặc sỡ. Cô gái quả biết chọn mầu vì nước da cô trắng ngời ngợi, hai cánh tay để trần nõn nà mủm mỉm như búp sen non. Trừ cánh tay để trần, bộ quần áo cô kín đáo nhưng dưới đôi mắt sắc sảo của ông, ông cảm thấy cô có một thân hình tuyệt mỹ, không quá mảnh khảnh yếu ớt hay quá nở nang đến xồ xề mà căng tràn sức sống ở một mức hài hòa lý tưởng. Và khuôn mặt cô, khuôn mặt trắng ngần tươi non nổi bật đôi mắt to đen lóng lánh như trẻ thơ, đáng lý tươi vui thì lại đượm một nỗi buồn. Hình như cô có liếc nhìn khi ông đi ngang qua mà như không thấy ông vì đang theo dõi một cái gì xa vắng. Ông đi ngang qua nhà cô một khoảng xa rồi tự dưng quay lại nhưng cô không còn ở đó nữa.

Từ đó hầu như ông đi ngang nhà cô mỗi ngày và đã tìm cách làm quen được với cô. Cô đã có chồng và một đứa con nhỏ. Chồng cô vì làm ăn phi pháp bị bắt quả tang đang nằm trong nhà giam chờ ngày ra tòa. Hoàn cảnh cô giúp ông hiểu được vẻ đẹp viên mãn và nỗi phiền muộn phảng phất trên mặt cô. Biết cô đang gặp khó khăn, ông nẩy ra ý nghĩ đề nghị cô làm người mẫu cho ông để ông có thể giúp đỡ cô phần nào. Thế là hằng ngày ông đến vẽ ở nhà cô say mê đến độ quên cả thiên nhiên bên ngoài.

Những lần ông đến, cô thường hay tâm sự. Chồng cô là người say mê tiền bạc và quyền lực. Anh ta đã lao vào mọi việc phi pháp để đạt được mục đích. Còn trước nhan sắc của cô, anh chứng tỏ dục vọng thô bạo hơn là tình yêu. Hồi mới cưới nhau, anh không như thế nhưng sau này anh đã thay đổi. Cô đã kết hôn vì sự ép buộc của gia đình muốn cô lấy một người chồng có địa vị. Mặc dù không yêu nhưng hồi đó cô không phản đối. Khi đã sống chung, càng ngày sự khác biệt giữa cô và chồng càng tăng lên. Cuộc sống gia đình cô tuy chưa tan vỡ nhưng không ít sóng gió. Cô bày tỏ những điều đó với ông một cách chân tình, tin cậy.

Cô cũng thường lắng nghe ông. Cô tiếp thu những câu chuyện về hội họa của ông một cách thông minh và đồng cảm. Ông cũng kể cho cô nghe cuộc đời của các họa sĩ nổi tiếng với lòng say mê nghệ thuật và những cuộc tình phi thường của họ, nhất là khi họ về già. Ông không chủ ý nhưng không hiểu sao ông đã kể về những chuyện đó. Có thể đó là một sự thôi thúc thầm kín của bản thân mà ông chưa nhận thức rõ ràng. Dần dà hai người cảm thấy đã đi vào một hoàn cảnh không khác bao nhiêu với những cuộc tình mê đắm điên rồ của các họa sĩ mà ông đã kể. Ông hơn gấp đôi tuổi cô. Và cô còn ít tuổi hơn con đầu của ông.

Điều làm ông ít cảm thấy mặc cảm tội lỗi là cô đã yêu ông với một tình cảm chân thành và trong sáng. Không phải ông chinh phục, lợi dụng cô mà chính cô đã yêu ông một cách hồn nhiên say đắm như sự say mê một thần tượng nghệ thuật mà cô vừa tiếp cận. Ông cũng đắm chìm trong tình yêu này, nơi hòa lẫn nhan sắc, tâm hồn và nghệ thuật. Ông ít để ý đến những lời xì xào chung quanh. Ngay một số người có chức quyền vốn không thích văn nghệ sĩ vì sự phê phán châm chích của họ, nghe phong thanh chuyện của ông, cũng đã nói bóng gió đến khi muốn chỉ trích và răn đe văn nghệ sĩ. Họ cho rằng văn nghệ sĩ là giới có rất nhiều thói hư tật xấu cần phải luôn luôn được lãnh đạo, uốn nắn. Có người còn nhân chuyện này muốn đề nghị trục xuất ông ra khỏi thành phố.

Ông biết ông ở vào một tình thế khó biện minh khi đứng trên quan điểm đạo đức thông thường. Ông đã lớn tuổi, có vợ con đang ở xa. Chồng cô đang bị giam. Nhìn bên ngoài, người ta dễ dàng kết án cả ông và cô đều phi đạo đức. Nhưng con tim có lý lẽ riêng của nó. Khi người ta yêu nhau vì yêu nhau, đó là tội lỗi hay sao? Thế nào là tình yêu chân chính? Vì những chuẩn mực đạo đức để hủy diệt một tình yêu tha thiết, hoàn toàn vô vị lợi lai là một hành vi đạo đức? Ông có đặt ra nhưng không muốn trả lời những câu hỏi đó nữa.

Trong những ngày tháng này, ông thấy mình sống, yêu và vẽ như bản năng. Ông sống rạo rực, yêu cuồng nhiệt với một sức xuân hồi sinh phơi phới như thuở còn thanh niên. Còn tác phẩm của ông, những bức vẽ chân dung và tranh khỏa thân gần như đến độ xuất thần. Bởi ông đứng xa khi vẽ nhưng đã thực sự đắm chìm vào người mẫu, hay ngược lại, người mẫu đã hòa tan trong ông. Ông đứng theo thói quen của họa sĩ thôi. Nhắm mắt lại, trong giấc ngủ, ông cũng cảm nhận được nét ngọc ngà, vẻ hồn nhiên tươi mát của cô ngời ngợi trong từng thế ngồi dáng đứng. Ông lại thấy ý nghĩ của ông về nghệ thuật và thiên nhiên không còn đơn giản như trước. Nếu không có con người, những con người đồng cảm hòa điệu, làm rung động, pha sắc cho tâm hồn thì thiên nhiên cũng chỉ là vẻ đẹp vô hồn mà thôi. Những bức tranh mới của ông về thiên nhiên nay cũng khác. Chúng như luôn được tắm gội qua một trận mưa tươi mát hoặc sáng lên vẻ đẹp nồng nàn của mặt trời rạng rỡ.

Thời gian ông sống, yêu và vẽ như cơn mê này không lâu. Người chồng của cô đã ra khỏi trại giam nhờ sự can thiệp của những ông lớn mà anh ta có dính líu trong việc làm ăn. Lúc còn ở trong trại, anh ta đã nghe về mối quan hệ giữa vợ và họa sĩ. Sự ghen tương của người chồng bùng nổ một cách thô bạo, hạ cấp khi vợ anh ngang nhiên thừa nhận tình yêu của mình và nói với anh bằng những lời khinh bỉ. Anh không dám đánh vợ nhưng đã to tiếng chửi rủa thậm tệ họa sĩ khi gặp ông bất cứ đâu ngoài đường. Mới đây anh ta đã xông tới tận phòng vẽ của ông, làm nhục ông và xé tan các tác phẩm hội họa của ông vừa thực hiện. Ông cắn răng để cho anh ta muốn làm gì thì làm. Anh ta cấm ông không được lai vãng đến nhà và dọa sẽ đâm chết nếu ông còn tìm cách gặp gỡ vợ anh ta.

Ông đủ tỉnh táo để thấy rằng anh ta xử sự thật vô văn hóa nhưng lại có lý về phía anh ta, một kẻ vừa thất bại trong cuộc đời lại bị vợ phản bội, theo cách nói thông thường. Anh ta có quyền và có thể làm những chuyện thô bạo hơn nữa, kể cả việc giết ông như anh ta đe dọa. Đó cũng là sự điên rồ mù quáng như tình yêu, dù đối với anh ta, đó không phải là tình yêu.

Thế còn tình yêu của ông và cô, tình yêu mà cả hai người đều tin chắc là chân thực và trong sáng, hai người có quyền yêu nhau bất kể mọi ràng buộc, ngăn cấm của đạo đức? Dù có quyền hay không, điều làm ông đau đớn là ông tưởng rằng tình yêu đã thăng hoa con người và nghệ thuật đến độ thiêng liêng và thần thánh, lại đã hạ thấp con người đến mức đê tiện, thô bỉ và trơ trẽn đến thế khi đụng phải giới hạn của đời thường. Ông không thể biện minh, giữ được tình yêu của mình trước người đời và tác phẩm của ông cũng tan tành dưới bàn tay căm hờn của người chồng thù hận.

Sau khi có bài phát thanh trên đài nhắc đến chuyện của ông, ông được một người quen cho biết thêm về chi tiết của nội vụ. Quả thật người thiếu phụ mà ông yêu không những đã quan hệ với cán bộ bị kỷ luật kia, mà còn quan hệ với nhiều người khác nữa, gần như là một thứ gái điếm bán chuyên nghiệp. Anh chồng ghen tương lại đóng vai một gã ma cô đưa khách về cho vợ, kể cả khách Việt kiều để lấy đô la. Đã có những vụ ầm ĩ trong phố vì anh chồng chia chác không thỏa đáng cho những người dắt mối. Và tác giả bài viết trên đài không ai khác hơn chính là anh chồng. Anh ta được thuê viết bài với mục đích bôi nhọ người cán bộ đang bị kỷ luật vì người này đang chống lại và gây khó khăn cho lãnh đạo của thành phố. Vì mối thù riêng, anh chồng đã đưa luôn chuyện của họa sĩ vào một thể, thông qua làn sóng điện của đài tiếng nói địa phương, bằng tiết mục “Ý kiến người làm chủ”.

Ông không sao hiểu nổi những điều này. Mới đây không lâu, ông và người thiếu phụ tuyệt vời kia đã bàn đến chuyện sẽ ly hôn với vợ, chồng của mình để về với nhau, quyết tâm vượt qua tất cả để sống cho tình yêu và nghệ thuật. Tất cả đã đi đến tận cùng, tột đỉnh của sự đê tiện và trơ tráo. Những sự thật trần trụi được phơi bày tác động đến ông như một làn hơi độc. Mọi chuyện đối với ông đều sụp đổ. Cả nghệ thuật, tình yêu, cái đẹp và lòng tin vào con người, những điều thiêng liêng nhất đối với ông trong cuộc đời này.

*

Ông đóng cửa nằm trong phòng mấy ngày liền không ra ngoài. Khi thấy phòng ông yên lặng quá lâu, những nhân viên nhà khách nơi ông thuê gọi không được phải phá cửa vào. Người ta thấy ông nằm chết trên giường. Ông đã tự tử bằng cách dùng dao lam cắt động mạch ở cổ tay. Máu chảy chan hòa trên sàn nhà đã đông cứng lại. Trong vũng máu người ta còn thấy một bức tranh của ông, có lẽ là bức tranh còn sót lại sau cuộc tàn phá của anh chồng ghen tuông. Bức tranh nhuộm một mầu máu bầm đen, còn thấy lờ mờ dáng một thiếu phụ khỏa thân yêu kiều.

Cũng từ đó, thành phố xinh đẹp này không còn họa sĩ. Các họa sĩ nghe chuyện của ông không ai còn định cư ở thành phố này. Những người khác có dịp đi chơi ngang qua cũng không muốn vẽ gì dù họ có mang theo đồ nghề. Và thiên nhiên ở đây vẫn đẹp tuyệt vời trong một nỗi trông chờ khắc khoải.

Tiêu Dao Bảo Cự
Dalat tháng 4-1991
Nguồn: Tác giả gửi

Đã đóng bình luận.