Đàm Trung Pháp

Chùa Cổ Pháp (Chùa Dận) là một danh lam tại làng Đình Bảng, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Tương truyền Lý Công Uẩn (về sau là Lý Thái Tổ) chào đời tại chùa này.
Người viết bài này rất hân hạnh được chia xẻ cùng quý độc giả về thi tài chữ Hán của một số khoa bảng đất Bắc Ninh thuở xa xưa. Trong di cảo Việt Hán Cựu Văn Trích Dịch, thân phụ tôi là Cụ Đàm Duy Tạo đã tóm lược tiểu sử của họ và diễn dịch sang thơ Việt một bài thơ chữ Hán tiêu biểu cho từng vị. Trong di cảo, các bài thơ chữ Hán được cụ viết tay chân phương, và trước khi dịch sang thơ Việt cụ cắt nghĩa từng câu rõ ràng, với cước chú cho những từ ngữ hay điển tích đặc biệt. Xin mời quý độc giả thưởng lãm các đoạn dưới đây được trích dẫn và nhuận sắc cho dễ đọc từ di cảo ấy.
Ông Chu Xa người huyện Yên Phong, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông đỗ khoa Ngự Thí năm Quý Sửu (1433) đời Thuận Thiên, làm quan đến chức Ngự Sử, được cử đi sứ sang Tàu. Ông là tác giả bài thơ Chu trung vãn vọng (Đi thuyền ngắm cảnh buổi chiều) đẹp như một bức tranh sơn thủy dưới đây:
Cực mục tà dương tế
Tàn hà mạt vãn không
Nhân qui sơn ổ ngoại
Chu phiếm ngọc hồ trung
Thủy diện song phi điểu
Giang tâm nhất điếu ông
Hứng quan do vị dĩ
Vi nguyệt quải tân cung
Diễn dịch:
Chiều hôm nhìn thẳm trời tây
Giáng tàn ửng đỏ vệt mây ngang trời
Người về khỏi xóm núi đồi
Giữa trong bầu ngọc thuyền bơi rập rờn
Đôi chim mặt nước chờn vờn
Một ông ngư phủ buông cần giữa sông
Còn đương cao hứng mải trông
Trăng non đâu đã treo cung bên trời
Ông Phù Thúc Hoành người làng Phù Xá, huyện Kim Hoa, phủ Thiên Phúc, tỉnh Bắc Ninh (làng này sau thuộc huyện Kim Anh, tỉnh Phúc Yên). Ông làm Giáo Thụ dạy Kinh Dịch ở Quốc Tử Giám hồi Hồng Đức, sau thăng chức Hàn Lâm Học Sĩ. Vợ ông là Bà Ngô Chi Lan hay chữ, tài thơ được vua Lê Thánh Tông ban chức Nữ Học Sĩ và bổ vào dạy học ở trong cung. Ông là tác giả bài thơ Dã hành thi (Cuộc đi rong đồng) đầy màu sắc và âm thanh dưới đây:
Vũ quá vân sơn bích
Lâm u khê thủy thanh
Đoạn kiều hành khách thiểu
Viễn cận dã kê thanh
Diễn dịch:
Mưa tạnh núi mây biếc
Rừng um nước suối trong
Gẫy cầu hành khách ít
Tiếng ếch kêu vang đồng
Bà Ngô Chi Lan người làng Phù Lỗ lấy chồng ở làng Phù Xá (như đã nói ở đoạn trên). Vua Lê Thánh Tông khen thơ bà lời hay ý rộng, và mỗi khi phụng mệnh làm bài thơ văn nào, bà làm xong ngay. Khi vua mất rồi, bà nói: “Tôi tài vụn vặt, may được gặp đức Tiên Hoàng, nghĩa tuy là vua-tôi, nhưng tình thật là cha-con” rồi bà vừa khóc vừa đọc bài thơ viếng vua dưới đây:
Tam thập dư niên củng tử thần
Cửu châu tứ hải úc đồng nhân
Đông tây thác địa dư đồ đại
Hoàng đế khôi thiên sự nghiệp tân
Vân ủng chân du vô xứ mịch
Hoa thôi thượng uyển vị thùy xuân
Dạ lai do tác quân thiều mộng
Trướng vọng Kiều Sơn thức lệ cân
Diễn dịch:
Ba kỷ ung dung vị thánh quân
Chín châu nhuần thấm một lòng nhân
Cõi bờ mở đất to công vũ
Hoàng đế ngang trời sáng đức văn
Mây rước xe loan mờ mịt bóng
Hoa đầy vườn thượng ngẩn ngơ xuân
Đêm mơ tiếng nhạc quân thiều nổi
Ngày ngó Non Kiều lệ đẫm khăn
Ông Trần Khản người huyện Quế Dương, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh có bút hiệu là Vô Muộn Tẩu (Ông lão không buồn bực). Ông làm quan ở Viện Chính Sự rồi về hưu sớm vì ông tin vào “tứ hưu” tức là bốn lúc nên nghỉ: (1) Cơm hẩm trà lạt, đủ no rồi, nên nghỉ. (2) Áo vá ngăn rét, đủ ấm rồi, nên nghỉ. (3) Mười điều được ba bốn điều vừa lòng, thế là quá rồi, nên nghỉ. (4) Không tham lam, chẳng ghen tị, tuổi già rồi, nên nghỉ. Đó cũng là những điều ông gửi gấm trong bài thơ dưới đây:
Công danh đọa tắng mạc hồi đầu
Phú quý phù vân để dụng cầu
Bất đố bất tham tùy phận sự
Tứ hưu chi ngoại cánh hưu hưu
Diễn dịch:
Công danh chõ vỡ tiếc nhìn chi
Phú quý mây trôi hám nỗi gì
Phận không tham, không tỵ nạnh
Ngoài vòng bốn nghỉ, nghỉ ngơi đi
Ông Đàm Văn Lễ người xã Lãm Sơn, huyện Quế Dương, tỉnh Bắc Ninh, nổi tiếng thần đồng. Năm Kỷ Sửu (1469) đời Quang Thuận ông mới 17 tuổi mà đã thi đậu tiến sĩ. Là người chính trực, ông làm quan đến chức Thượng Thư Bộ Lễ. Khi vua Hiến Tông mất năm 1503, ông theo di chiếu lập vua Túc Tông. Khi vua Uy Mục lên ngôi năm 1505 thì giận ông đã không lập mình trước đây, giáng ông xuống làm Thừa Chính Xứ ở Quảng Nam, rồi sai người đuổi theo hạ sát ông. Bài thơ vịnh Xuân Cung (nơi Thái-tử cư ngụ) của ông dưới đây làm nổi bật vẻ thanh nhã cao sang của một nơi lý tưởng để tu luyện tính tình cho người đạo đức thanh tao:
Đạo các phong thanh nhật chuyển trì
Giai tiền tĩnh khán liễu âm di
Nhất trương cầm ngoại vô tha ngoạn
Sổ quyển thân sao ngự chế thi
Diễn dịch:
Gác đền mát mẻ tháng ngày dà
Lặng ngắm thềm hiên bóng liễu dời
Ngoài chiếc đàn cầm đồ thưởng ngoạn
Tay sao mấy quyển ngự thi thôi
Ông Phạm Khiêm Bính người làng Lãm Sơn, huyện Quế Dương, tỉnh Bắc Ninh. Ông đậu tiến sĩ khoa Nhâm Tuất (1502), làm quan đến chức Thượng Thư Bộ Hộ kiêm chức Đô Ngự Sử. Họ Mạc giáng ông xuống làm Hưu Thị Lang. Bài thơ dưới đây của ông cho người đọc thấy tâm sự của ông thật là uất hận vì nỗi sinh không gặp thời, bị lũ tiểu nhân làm hại, uổng cả tài ba, đạo học, nhưng vẫn yên vui số phận, một niềm ngay thẳng, cốt sao không xấu hổ với tiền nhân:
Ngũ bách dư niên nhất khí tài
Thử tao bần bệnh tối kham ai
Tiền tài bất ước niên niên khứ
Ky sát đa tình cố cố lai
Đắc táng quan thiên vô quý hối
Cát hung hữu mạnh tự an bài
Giao du tương kiến kim tri kỷ
Thanh nhãn tầm hương vị tổ khai
Diễn dịch:
Năm trăm năm lẻ mớ tài thừa
Nghèo ốm phen này cảnh ngán chưa
Không ước bạc tiền đi mãi mãi
Có tình chấy rận bám khư khư
Hơn thua trời cả lòng hê hả
Lành dữ ta đành số đẩy đưa
Bè bạn thấy nhau người biết mấy
Về quê khỏi thẹn tổ tiên xưa
Ông Giáp Hải người làng Sính Kế, huyện Phượng Nhãn, tỉnh Bắc Ninh (sau thuộc về Bắc Giang). Khoa Mậu Tuất (1538) đời Đại Chính nhà Mạc ông đậu Trạng Nguyên nên thường được gọi là Giáp Trạng Nguyên. Lúc Mao Bá Ôn phụng mệnh vua nhà Minh sang đánh họ Mạc có đưa bài thơ mang tựa đề Bình Thi (Vịnh Bèo) sang bắt ta họa lại. Vua Mạc bèn sai các danh sĩ ta mỗi người họa một bài để lựa chọn, và bài của Giáp Trạng Nguyên được gửi sang triều đình nhà Minh. Các quan Tàu đều phải chịu là hay, rồi mượn cớ nước ta có nhân tài mà lui quân! Dưới đây là bài xướng (đầy khinh bạc) của Mao Bá Ôn và bài họa (đầy hào khí) của Giáp Trạng Nguyên cũng như các phần diễn dịch đi kèm:
Xướng:
Tùy điền trục thủy mạo ương châm
Đáo để khan lai thực bất thâm
Không hữu căn miêu không hữu diệp
Cảm sinh chi tiết cảm sinh tâm
Bất tri tu xứ ninh tri tán
Vị thức phù thời khởi thức trầm
Đại để Hán Đường phong khí ác
Tảo quy hồ hải tiện nan tầm
Diễn dịch:
Theo bùn theo nước nẩy mầm
Xem ra rễ bám mặt lầm chẳng sâu
Gốc cùng lá có gì đâu
Dám sinh ngành đốt ra chiều gớm gh
Tụ không nói, tán khác gì
Chưa hay khi nổi, biết chi lúc chìm
Hán Đường nổi gió chẳng êm
Quét về hồ bể hết tìm tăm hơi
Họa:
Cẩm lân mật vật bất dung châm
Đế diệp liên căn khởi kế thâm
Thường dữ bạch vân tranh thủy diện
Khẳng giao hồng nhật há ba tâm
Thiên tằng lãng đả xuyên nan phá
Vạn trận phong xuy cổn bất trầm
Đa thiểu ngư long tàng dá lý
Thái công vô kế hạ câu tầm
Diễn dịch:
Vẩy thêu mau chẳng lọt kim
Rễ liền gốc lá ngoài niềm sâu nông
Cùng mây tranh mặt nước trong
Vầng hồng đâu để xuống lòng ba lan
Sóng cồn muôn lớp không tan
Bão tung gió lật muôn cơn không chìm
Trong nhiều rồng cá im lìm
Cần câu ông Lã khôn tìm nơi buông
Tiện đây, người viết bài này xin được mạn phép nói đôi lời về cuộc đời tác giả Việt Hán Cựu Văn Trích Dịch.
Cụ Đàm Duy Tạo sinh năm 1896 tại làng Hương Mặc, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh và mất năm 1988 tại Montréal, Gia Nã Đại. Cụ có thi hương khoa Nhâm Tý (1912), nhưng ngay sau khi các kỳ thi chữ nho bị bãi bỏ, cụ theo học chữ Pháp một thời gian và trở thành một nhà giáo tiểu học vào khoảng năm 1920. Cụ từng dạy học trên ba thập kỷ tại Phúc Yên và Hà Nội. Khi di cư vào Saigon năm 1954 thì cụ đã đến tuổi về hưu và được mời dạy giờ môn Hán văn tại trường Nữ Trung Học Gia Long và dịch sách chữ Hán sang tiếng Việt cho Trung Tâm Học Liệu của Bộ Giáo Dục.
Ngoài cuốn Kiến Văn Tiểu Lục Tập Nhì (của Lê Quý Đôn) và cuốn Kiến Văn Lục (của Võ Nguyên Hanh) mà cụ dịch sang tiếng Việt và được Trung Tâm Học Liệu xuất bản năm 1965 và 1969 để sử dụng ở bậc đại học, cụ còn dịch và hiệu khảo các cuốn Nam Thiên Trung Nghĩa Bảo Lục (của Phạm Phi Kiến), Lê Triều Tiết Nghĩa Lục (của một tác giả khuyết danh), và Bắc Hành Tùng Ký (của Lê Quýnh). Cụ cũng hoàn tất hai cuốn sách rất ưng ý của cụ là Hoa Văn Trích Dịch Tập (gồm thơ và văn từ Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Đào Tiềm, Lương Khải Siêu, vân vân) và Việt Hán Cựu Văn Trích Dịch (gồm những thi phú chữ Hán của các bậc khoa bảng Việt Nam, với nhiều vị xuất thân từ tỉnh Bắc Ninh). Trong hai cuốn sau cùng này cụ đã dịch thơ chữ Hán sang thơ tiếng Việt qua một vài thể thơ khác nhau.
Rồi, để giải sầu nơi đất khách tại Bắc Mỹ, cụ bỏ ra hơn sáu năm trời (1976-1982) để hoàn tất một công trình văn học cuối đời. Đó là tác phẩm Truyện Kim-Vân-Kiều Giảo-Đính Tường-Giải. Cuốn sách 570 trang này đã được một cô cháu họ đánh máy từng trang, và cụ viết tay từng chữ Hán và chữ Nôm vào trong các chỗ cần thiết. Mục đích việc giảo-đính tường-giải của cụ là so sánh các chữ, các câu khác nhau trong các bản Truyện Kiều qua những giải thích và dẫn giải rõ ràng và dễ hiểu trên căn bản chữ Hán, chữ Nôm cũng như các điển tích, phong dao, tục ngữ, để cải chính lại những sai lầm trong một số bản Truyện Kiều đã được lưu hành. Tôi và bào đệ đồng nghiệp Đàm Trung Phán xin kính mời quý độc giả, nhất là quý đồng hương Bắc Ninh, thưởng lãm công trình văn học này của thân phụ chúng tôi mà chúng tôi đã đưa toàn bộ vào blog: http://kimvankieu.wordpress.com/
Đàm Trung Pháp
Nguồn: Tác giả gửi


















