Xếnh xáng

Posted: 06/10/2011 in Quốc Ấn, Truyện Ngắn

Quốc Ấn

Hương bước vào phòng. Một vài cái đầu trai trẻ ngừng đọc ngẩng lên nhìn. Những câu giới thiệu kín và những lời phê bình về sắc đẹp của nàng đã thì thầm ở vài nơi trong phòng sách, bằng tiếng Pháp:

– Hương, người Trung Hoa, học trên tao một lớp.

– Tạo hóa đã thành công vẻ vang ở công trình mỹ thuật này!

Trong y phục một thiếu nữ Âu châu, cái đẹp rất Á đông của Hương làm cho những nhà thẩm mỹ khó tánh đến đâu cũng phải kinh ngạc.

Thiếu nữ đã thoáng thấy những cử chỉ và những câu khen tặng của nhiều thiếu niên có mặt; song với dáng điệu của một người đẹp đã thấy và nghe nhiều như thế rồi, Hương thản nhiên đi thẳng đến những ngăn đựng các bàn kê sách.

Bỗng nàng đứng lại sau lưng một thanh niên đang cúi đầu vừa đọc một quyển sách, vừa ghi vào một quyển sổ tay, có vẻ chăm chú lắm.

Rất tự nhiên, Hương bước đến sát bên người ấy nghiêng đầu nhìn qua vai chàng ta xem quyển sách gì, rồi có dáng suy nghĩ, nàng quay sang phía các ngăn sách, lấy một quyển mở ra, lật vài tờ rồi xếp trả lại.

Trong khi đọc đến tên sách, nàng quay lại nhìn về người trẻ tuổi ấy mấy lần, rồi chót hết, Hương trở ra cửa xuống lầu.

Hôm nay, Hương định lên đọc nốt quyển “En Chine” của Albert Bonard nhưng nàng đổi ý khi bắt gặp người trẻ tuổi kia ở đó.

Nàng qua đường Lagrandière, quẹo sang tay mặt, tìm đường Catinat đi xuống. Nàng cứ đi thẳng như thế, không một mục đích nhứt định, để tiện suy nghị.

Chính sự có mặt của người thanh niên ấy đã gieo vào lòng Hương sự bất ngờ. Đó là một người rất thân với nàng, với gia đình nàng: ông giáo sư dạy chữ Tàu mà mỗi người trong gia đình nàng quen gọi là  xếnh xáng.

Từ sáu tháng nay, cha nàng đã rước ông ấy về nhà để tiếp coi sổ sách buôn bán và dạy nàng học về văn hóa Trung Hoa.

Theo cha nàng nói, thì Mành, Việt Nam gọi là Văn, là con của ông Bang triều châu ở lục tỉnh, có một sức học rộng rãi về Hán văn. Muốn cho con gái tuy học trường Pháp, song cũng nhớ đến nguồn cội, ông nhờ Văn mỗi tối và ngày lễ dạy Hương học thêm chữ Tàu.

Văn không còn cha mẹ, nên chàng dọn đến ở hẳn tại nhà Hương để giúp đỡ cha nàng và tiện việc dạy học.

Về Hán văn, Hương cũng có một trình độ tương đương với sức học bên Pháp văn của nàng, để nghe giảng bài và làm văn được rồi.

Nàng nhận thấy rằng ông thầy của nàng rất giỏi mỗi khoa. Ông giảng rất rành mạch ngũ kinh, tứ thơ, thi phú Đường, Tống và các nhà văn cận kim, hiện đại của Trung Quốc.

Ngoài ra các môn ấy, ông lại giải nghĩa các bài học của Hương đang học ở trường, sau khi nghe Hương dịch lại bằng tiếng Trung Hoa cho ông nghe các bài ấy.

Hương hỏi xem ông đã học đến ban nào, thì ông bảo rằng tự học chứ chưa từng có về Tàu bao giờ.

Nàng đã nhiều lần lấy làm lạ. Một người chưa bao giờ học ở một trường đại học Trung Hoa lại có một sức học cao đẳng như thế.

Hôm nay sự ngạc nhiên của nàng càng lên cùng tột, khi thấy ông thầy Tàu của nàng đọc thẳng ở một quyển sách thảo mộc học bằng chữ Pháp.

“Ông ta bảo không biết chữ Pháp”!

Hương băn khoăn tự hỏi:

“Nếu ông ta đọc và hiểu nổi một quyển sách như thế, tại sao ông ta không đi làm những việc khác lợi gấp trăm lần cái công việc làm sổ sách cho một nhà buôn tầm thường và dạy riêng một cô học trò”.

Hương không thể trả lời được, và càng băn khoăn.

Ừ! Một người trẻ tuổi như ông ấy, có tài như ông ấy, tại sao lại chịu sống một cách đơn giản trong một xã hội thương gia tầm thường và bằng lòng với cách xưng hô “xếng xáng” tức là tiên sinh suông của những người Trung Hoa quen biết với gia đình nàng. Ít ra người cũng có một ẩn tình, Hương thầm nghĩ.

Ẩn tình ấy, Hương muốn biết.

Con sông Sài Gòn và những tàu, ghe trước mặt Hương làm cho Hương giật mình nhớ lại mình đã đi quá xa, với một ý nghĩ, qua nhiều đường phố. Ý nghĩ ấy lại châu về một người, một người thanh niên. Hương thẹn vì đã nghĩ nhiều về thầy học mình.

Cảnh sông rộng trong một buổi chiều vần vũ mây đen vô tình nhắc Hương nhớ tới hai câu thơ của Thôi Hiệu mà nàng đã ngheVăn ngâm bằng giọng Triều Châu, một chiều nọ, lúc chàng đứng bên cửa sổ trên lầu nhìn kinh Chợ Lớn.

Dzít mỏ hiêu quan hò tsụ xỉ,
Ên guồi can tsiển piềng nàn dxấu.

(Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu).

Cái giọng Tàu của Văn êm đềm, du dương làm sao ấy! Mà cái chiều nọ cũng hợp cảnh:

Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng thêm buồn lòng ai.

Quê Văn ở đâu, nàng cũng chưa bao giờ hỏi. Nhưng chiều nay, Hương nhứt định sẽ hỏi cả những điều nàng băn khoăn muốn biết. Hương về đến nhà thì đã sáu giờ. Nàng đi thẳng lên lầu, thấy Văn mặc đồ mát, đứng bên cửa sổ nhìn ra sông.

Nghe tiếng giày của Hương, Văn quay lại. Thấy nàng, chàng chào với giọng Quảng Đông hệt Tàu của chàng.

– A! Cô Hương chiều nay đi chơi ở đâu đó?

Hương tươi cười đáp:

– Tôi lên phòng đọc sách Lagrandière. Còn xếnh xáng?

Văn có vẻ bối rối, gượng trả lời:

– Tôi… tôi… tôi thì tôi đi uống rượu.

Hương nói thẳng bằng tiếng Pháp.

– Uống rượu với quyển sách thảo mộc của tiên sinh à?

Văn không đáp, nhìn Hương, chờ đợi.

Hương lộ vẻ giận, hỏi tiếp:

– Tiên sinh bảo không biết chữ Pháp, nếu tôi thấy tiên sinh đọc được một quyển sách chữ Pháp thì tiên sinh trả lời với tôi làm sao?

Văn nín lặng, rồi bảo bằng một giọng Pháp rất rõ ràng.

– Điều đó cũng không có gì làm cho cô giận!

Câu nói lạnh lùng ấy làm cho Hương tức lên, nước mắt rưng rưng. Nàng có cảm giác như bị khinh bạc, mặc dầu người đứng trước mặt nàng chỉ là ông thầy học của nàng, một người mà nàng kính trọng. Song với người ấy, nàng đã chan chứa cảm tình, khi khám phá ra được một địa hạt khác của người.

Trước cử chỉ ấy của Hương, Văn có vẻ hối hận về lời nói hơi xẵng của chàng, nên dịu giọng:

– Nhưng việc tôi đọc được một quyển sách chữ Pháp có gì làm cho Hương giận chớ, hãy nói đi cho tôi biết với!

Câu ấy, Văn nói bằng một giọng Việt Nam rất êm đềm, vì chàng biết Hương là một thiếu nữ minh hương nói sành tiếng Việt.

Hương bước đến vịn vào song cửa sổ, vẫn chưa hết tức, lau nước mắt và nói:

– Nghĩa là tiên sinh dối tôi, kẻ đã coi tiên sinh là một người thân.

Và nàng tiếp:

– Tiên sinh thử nhớ lại xem, có bao giờ tôi giấu tiên sinh một điều gì chăng?

– Thì tôi hiểu biết những gì, đều đem ra chỉ dạy cho Hương cả, chớ tôi có giấu gì Hương đâu?

Thấy Hương không trả lời, chàng tiếp:

– Sở dĩ tôi bảo rằng tôi không biết tiếng Pháp và tiếng Việt là để sống cuộc đời yên ổn, bình dị một thời gian trong gia đình Hương, trong một khu cách biệt của người Trung Hoa.

Hương hơi nguôi sự tức giận, hỏi lại:

– Tiên sinh là người Trung Hoa lai Việt?

– Phải, cũng như Hương. Quê cha tôi là một giải đất vàng ở miền bắc Trung Hoa, quê mẹ tôi là những cánh đồng lúa xanh ở miền tây Nam bộ. Nơi đó máu của người Việt Nam, đồng bào của mẹ tôi, và máu người Pháp, đồng bào của những người đã đào tạo tinh thần tôi, đang đổ.

Kìa là những cầu kỳ, đường sá, trường học, dưỡng đường, công trình chung của văn minh Tây phương và mồ hôi của người Việt. Tôi muốn được thấy những dân tộc đã điểm tô trên giải đất này có thể yêu mến nhau trong sự hiểu biết tương đối và thành thật để cho chúng ta, những đứa con lai, được sống trong một bầu không khí thân ái, êm đềm trên lãnh thổ ta đã ra đời.

Tôi nhớ quê nhà tôi lắm, những cánh đồng lúa xanh chạy thẳng đến chân trời, với những con trâu, những bầy sáo ngàn, cò trắng đã cùng chung sống với tôi thuở thanh bình”.

Hương cũng mong mỏi một cảnh thái bình, để được thấy những cánh đồng lúa xanh chạy thẳng đến chân trời, với những con trâu, những bầy cò, sáo ngàn, bên những người nàng yêu.

Nàng liếc nhìn Văn, chàng đăm đăm nhìn sông, mơ màng…

Đứng bên Văn, Hương cũng nhìn xuống giòng sông ao ước: “Nếu đây là cảnh thái bình!”, và câu thơ Đường tuyệt bút ở lầu Hoàng hạc trở lại trong trí Hương:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Quốc Ấn
Nguồn: Thẩm Tuyên gửi

Đã đóng bình luận.