Mặn đắng môi cười

Posted: 27/10/2011 in Minh Nguyễn, Truyện Ngắn

Minh Nguyễn

Chuyến xe xuôi về miền Tây dừng lại ở bến phà. Tay lơ trẻ mở cửa xe, lao nhanh xuống đường, đồng thời mất hút trong đám đông. Hành khách ngồi chờ trên xe buồn miệng, kẻ thò tay qua cửa mua chai nước uống, người vội vàng chọn lấy món quà vặt ăn lót dạ. Giữa cái nóng chói chang tháng bảy cùng với cảnh buôn bán ồn ào tấp nập dưới đường, biến không khí buổi sáng trên bến phà trở nên ngột ngạt. Kịp khi ấy, tay lơ trẻ cũng đã quay về, trên tay cầm theo một xấp vé. Hắn mở toang cánh cửa, hối mọi người xuống xe đi bộ qua phà và, không quên trao vào tay mỗi người một chiếc vé. Tôi chẳng bận tâm nhìn tấm vé lớn chỉ bằng hai ngón tay viết gì, thừa hiểu giá trị của nó tương đương với một chuyến qua phà. Điều này, giống với cách nay hơn bốn mươi năm, mỗi lần đi phép từ Cần Thơ về Sàigòn, tôi cũng được nhà xe phát cho chiếc vé qua phà Cần Thơ hay Mỹ Thuận vậy. Khác chăng, quốc lộ bốn xuôi miền Tây hôm nay, xe cộ không còn cảnh xếp hàng rồng rắn mà, chạy thẳng tuột qua hai chiếc cầu dây văng, với cảm giác đang di chuyển bồng bềnh trên chiếc thuyền buồm căng gió; bỏ lại sau lưng ký ức trăm năm vui-buồn với vạn mảnh đời lam lủ, sống hiu quạnh bên những bến sông đỏ ngầu dòng chảy phù sa.

Cầm chiếc vé trên tay, tôi trôi theo dòng người bước qua những chiếc mâm, chiếc rổ bầy đầy trái cây nhiệt đới tươi ngon, chào mời từ đám em nhỏ nghèo khó vây quanh. Dù không có thói quen ăn uống dọc đường, song tôi không nỡ từ chối những ánh mắt ngây thơ đuổi theo sau từng  bước chân tôi một cách buồn bã, cầu mong sự may mắn bán được ít quà bánh. Để biểu lộ sự đồng cảm, tôi mua vài món quà với hy vọng giúp các em có món tiền nhỏ sống qua ngày. May sao, lúc vừa quay người đi, tôi kịp nhận ra lão già mù ngồi sau chiếc thau nhôm móp méo cùng với cây gậy tre dẩn đường. Tiện tay, tôi đặt món quà vào chiếc thau thay cho những đồng tiền lẻ, trước khi kịp quay lưng đi. Tội nghiệp, tôi nghĩ sẽ chẳng bao lâu nữa những mảnh đời cơ cực này rồi, cũng chung số phận với những con phà nằm ụ, chờ rỉ sét khi chiếc cầu mới sớm được xây dựng?

Đang đi, tôi bỗng nhận ra nét mặt mang nặng dấu vết ưu tư nơi gã đàn ông vừa đi nhanh lên phía trước, giúp tôi mau chóng nhận ra sự quen biết nào đó. Bất ngờ, khi vượt qua tôi vài bước chân, gã vụt ngoái đầu nhìn lại hỏi tôi:

– Có phải . . . ?

Tôi khựng người trước bóng dáng cao gầy cùng vớt nét mặt xương xẩu, điểm thêm đôi mắt sáng tinh anh nằm trong hốc mắt nơi gã đàn ông. Hình ảnh của ba mươi sáu năm về trước chợt hiện về nơi trí tưởng tôi thật rõ nét. Chính xác, vào đêm hai mươi tám tháng tư, cơm nước xong xuôi tôi bước ra ngồi dưới chân thang dãy ba-rắc cao một tầng lầu, do quân đội Mỹ bỏ lại khi Kissinger âm thầm ký kết hiệp định Paris, bán đứng miền Nam cho cộng sản, đổi lấy sự chiến thắng nhục nhã. Ở đó, trong những ngày dài nhất đời người, mỗi tối tôi ôm nỗi buồn ra  ngồi nơi chân thang, nhìn lên bầu trời trên cao cầu nguyện cho các chuyến bay về muộn nơi cuộc chiến. Một cuộc chiến bẩn thỉu do đạo diễn Hoa Kỳ dàn dựng và kết thúc bằng việc bỏ mặc đồng minh hấp hối trên chiến trường, nhằm bảo vệ quyền lợi Mỹ. Chẳng bù với thời gian mới đặt chân đến đất nước nghèo khổ này, nước Mỹ hô hào chiến thắng cộng sản, mang lại ấm no, tự do, độc lập, hạnh phúc cho mọi người. Thế nhưng nỗi buồn sau chiến tranh, dân chúng miền Nam nhận ra thân phận người lính đánh thuê, thay cho danh nghĩa đồng minh cùng đứng trên một chiến tuyến. Điều vô nhân đạo dễ nhìn thấy nhất không ngoài việc đẩy hàng triệu người vô tội đi làm thuyền nhân bất đắc dĩ trên những chiếc thuyền nhỏ bé chẳng hơn gì món đồ chơi; mặc cho sự sống chết hoặc làm mồi cho cá mập trên biển.

Và, trong những đêm chờ đợi điều bất trắc xảy ra, tôi bắt gặp viên thiếu úy trẻ quê huyện Lấp Vò – Đồng Tháp, xuất hiện từ khu vườn rau kế hoạch kinh tế thời hậu chiến, ghé chơi. Được biết, từ quân trường anh bị điều ra Đà Nẵng, nhưng nhờ quen nhiều nơi nên, chỉ sau thời gian ngắn anh có lệnh thuyên chuyển về không đoàn bốn, ngồi vào ghế trưởng ban văn thư làm xếp trực tiếp của tôi. Tình cờ, trong buổi sáng ở trường đại học, anh nhận ra tôi trên giảng đường năm thứ ba, trong khi anh mới ghi danh năm thứ nhất. Sau này, xếp của xếp đi học tham mưu cao cấp, nhờ tôi làm giúp bài tham luận nên anh biết mà ngó lơ. Chẳng rõ, đêm nay anh ghé tới tận đây tìm tôi với mục đích gì? Tôi hỏi khi anh vừa bước đến đứng ngay trước mặt: “có việc chi hả thiếu úy?” Không đợi mời, anh thân thiện ghé mông ngồi xuống cạnh tôi khuyên “Anh Ngữ này! Tình hình chiến sự đã đến hồi gay go. Nhiều thành phố bị bỏ ngõ, dân chúng từ bỏ nhà cửa dắt díu nhau tìm về phía biển. Anh liệu coi nên đi hay ở. Đừng ngại, tôi biết anh rất thân thiết với phòng kiểm soát bảo trì, há chẳng tìm được phi cơ nào tốt. Anh cứ ra đi, nếu sự việc lỡ có đổi chiều như hồi biến cố tết Mậu Thân, tôi sẽ đứng ra lo liệu mọi chuyện giúp anh khi phải trở về“. Nói ra lời chân tình này, chứng tỏ bấy lâu anh đã dành cho tôi nhiều tình cảm hơn tôi nghĩ. Tôi thực sự cảm thấy bối rối, cảm động trước những ân tình mà anh dành cho tôi. Tiếc thay tôi chẳng mặn mà gì với việc ra đi, bởi tôi thừa hiểu nước Mỹ hiện đại, giàu có, ấm no nhưng người Mỹ chẳng cho không ai cái gì bao giờ. Đổi lại, tôi càng ghét bản chất Mỹ thậm tệ qua sự kỳ thị một cách hết sức cực đoan. Hơn thế, mới hai hôm trước đây, xếp của xếp bất ngờ gọi tôi vào phòng làm việc của ông. Trong lúc chuyện trò, ông đặt ra cho tôi câu hỏi đi-ở trong tình hình bấy giờ. Tôi cười, cười vì bấy lâu tôi đã quá rõ cuộc chiến tranh phi lý do các thế lực vô hình bên ngoài giật dây; biến anh, tôi, giới lao đông nghèo ít học ở nông thôn thành thứ con rối qua trò chơi chiến tranh, hầu giúp chúng có cơ hội thử nghiệm, buôn bán các loại vũ khí tối tân. Thấy tôi vẫn ngồi trầm ngâm, viên thiếu úy nhắc: “anh quyết định mau đi, bên khu sĩ quan người ta đang phá bỏ mọi thứ để ra đi”. Tôi nhìn sang khu vườn rau, dưới ánh sáng trắng đèn cao áp tôi kịp trông thấy những luống rau, cây mía trổ cờ đang chờ thu hoạch, đổ rạp xuống qua tiếng động nghe rào rào như thể có trận bão vừa ghé ngang.

Không ngờ, lời từ chối sau ba mươi sáu năm, kể từ khi con kên kên gặm được miếng mồi béo bở miền Nam, đẩy hàng vạn con người dính líu tới chế độ cũ vào trại tập trung, lao động nặng nhọc trong sự đói khát, sống dở chết dở. Vậy mà, sáng nay chúng tôi không ngờ còn gặp lại nhau, tay bắt mặt mừng trên cùng một chuyến phà quê hương.

– Có phải anh không thiếu úy? Tôi ấp úng hỏi lại.

– Chèn ơi! Bây giờ là thời buổi nào mà anh còn gọi tôi thiếu úy này thiếu úy nọ. Chắc hẳn anh đã quên mất tên Thi này rồi phải không?

Tệ thật, hơn một nữa đời người trôi qua với biết bao chuyện vui buồn xảy ra, bảo sao trong ngần ấy thời gian trí nhớ tồi tệ nơi gã đàn ông tròm trèm bảy mươi, còn đủ minh mẩn để nhớ về cái thời bất hạnh của mình. May sao đã có Thi giúp tôi nhớ lại một thời xa vắng.

– Thành thật xin lỗi. Từ nảy giờ tôi cố moi óc tìm lại một cái tên quen thuộc nào đó trong số bạn bè nhưng không thể.

Thi khẽ cười, ôm chầm lấy tôi mừng rở nói:

– Nói thiệt, cứ mỗi lần nghe gọi thiếu úy này thiếu úy nọ, tôi sung sướng đến muốn rơi hai hàng nước mắt, nhớ tới tháng ngày sống trong quân ngũ. Nhớ tới các chiến hữu ra đi không bao giờ trở lại trong thời ly loạn. Nhớ tới những buổi chiều một mình leo ngồi trên bờ ụ trực thăng, đếm từng chiếc chiến đấu cơ  bay về từ phía biển, tiếp phi đạo bằng cú đáp ngoạn mục nhờ một chiếc móc đặt dưới bụng móc đúng vào sợi giây cáp giăng ngang đường băng, mở ra từ phía đuôi những chiếc dù màu sắc đẹp đến tuyệt vời, bắt con quái vật đang hùng hổ lao tới trước phải dừng lại đúng lúc. Nếu chỉ cần tính toán sai một giây, cú đáp sẽ không thể thực hiện, lúc ấy phi công tự lấy làm hổ thẹn, tìm lại cao độ bay lại một vòng khác. Và, trăm lần như một, mỗi cú đáp đã để lại ấn tượng mạnh mẽ trong tôi qua việc chứng kiến khối sắt thép nặng nề, nhẹ nhàng đáp xuống phi đạo một cách an toàn.

Nghe nhắc đến kỷ niệm, tôi sực nhớ tới vị sĩ quan cao lêu nghêu, tính tình hồn hậu, có gương mặt tai tái màu khổ hạnh. Hỏi lý do vì sao ông lại ăn chay quanh năm, ông chỉ cười bao dung nói rằng: “để cầu nguyện cho đất nước sớm có hòa bình”.

– Anh có tin tức gì về xếp Văn? (*) Tôi hỏi.

Thi buồn buồn kể:

– Thời gian ở trong cùng một trại tù cải tạo, có lần tôi nhìn thấy xếp từ bên kia hàng rào kẻm gai. Định cất tiếng gọi nhưng kịp nhận ra hai tay ông bị trói thúc ké ra phía sau và đi kèm ngay bên là hai tên quản giáo. Hỏi thăm mới hay xếp bị đưa đi nhốt chung với mấy tay tù trọng tội, có số má để chúng hành hạ ông. Lý do, dám đứng lên phản đối việc bắt giam tù nhân học tập cải tạo đã hơn ba năm, không đúng với những lời hứa hẹn ban đầu.

– Sau đó thế nào?

– Tôi bị thuyên chuyển qua nhiều trại khác nên không biết gì về ông. Cho tới một hôm, có toán tù mới chuyển trại đến, tôi hỏi thăm mãi mới gặp được người ở chung trại với xếp.

– Anh ta nói gì?

– Rằng, sau những cuộc tranh luận nảy lửa với chính trị viên cao cấp, họ thấy không thể dùng lý luận Marx nói lại ông nên, giận dữ cho nhốt vào chuồng cọp. Loại chuồng mà trước đây họ lên án, rêu rao cho khắp thế giới thấy nó vô cùng tàn bạo. Để phản ứng lại, xếp chọn cách chết vinh hơn sống nhục bằng cách nhặt lấy mảnh vở vỏ chai, cắt mạch máu cổ tay tự tử.

– Tình trạng xấu đến cở nào?

– May có người trông thấy tri hô, xếp được đưa tới trạm xá cứu chữa kịp thời.

Nghe đến đây tôi cảm thấy ớn lạnh cả người, vì trong chuyện xảy ra, ít nhiều cũng liên quan đến lời nói chủ quan của tôi rằng: ”nếu thiếu tá còn gia đình, anh em hay họ hàng có liên quan với bên kia thì, chẳng đến nỗi phải sợ hãi đi đâu”. Sở dĩ, tôi nói điều này vì có lần nghe người lái xe cho xếp kể, ông còn cha mẹ già, anh em sinh sống ở các vùng phụ cận xứ dừa. Tưởng gì, chứ ở những nơi như thế, cứ mười gia đình thì có hết năm đi theo bên kia, năm gia đình còn lại thì có ba là cảm tình Việt Minh, chỉ còn hai mới đi lính quốc gia vì không thể trốn đi đâu. Nguyên nhân là trước đây binh lính thực dân Pháp quá tàn bạo. Đi đến đâu họ bắn giết, hảm hiếp phụ nữ, đốt phá xóm làng đến đó, gây không biết bao sự căm thù trong lòng dân chúng. Ngược lại, Việt Minh chỉ với tầm vông vạt nhọn, đánh đuổi kẻ thù ra khỏi đất nước. Huyền thoại Việt Minh trở thành ánh sáng soi đường cho những ai có lòng yêu nước. Lợi dụng tình cảm người dân miền Nam ủng hộ phong trào Việt Minh; miền Bắc vừa ký hiệp định Genève chia cắt đất nước, vừa cài người ở lại lập ra mặt trận giải phóng nhằm lật đổ chánh phủ Diệm. Vậy là hòa bình chưa kịp đến, bóng dáng chiến tranh đã đồng thời xuất hiện, khiến cho máu của hàng triệu binh lính vô tội của hai miền Nam-Bắc tiếp tục đổ xuống cho mảnh đất quê hương, kéo dài ròng rã qua suốt hai mươi mấy năm sau. Để đến ngày miền Nam hoàn toàn thất thủ bởi sự phản bội của đồng minh. Nhân dân mừng rỡ, tưởng sẽ được sống trong sự ấm no, hạnh phúc dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Nào ngờ, khi bức màn sắt được vén lên, làm lộ ra bộ mặt miền Bắc nghèo nàn lạc hậu đến không ngờ. Với hình ảnh kẻ chiến thắng giàu có, vai vác khung xe đạp, tay ôm búp bê mũ, ngực đeo đài bán dẩn mở hết âm lượng với khúc quân hành đỏ, nghe vang dội khắp phố phường. Qua đó, dân chúng mới ngộ ra những điều không có thực trong chuyện tuyên truyền cùng với màn trình diễn khéo léo qua việc được đút cho ăn những chiếc bánh vẽ thật vĩ đại.

Tôi thở phào nhẹ nhỏm như vừa cất được gánh nặng:

– May mà xếp còn sống, nếu không tôi phải ân hận suốt đời.

– Có chuyện chi nghiêm trọng? Thi hỏi.

– Tôi đã khuyên xếp ở lại.

– Lý do nào khiến anh làm vậy?

– Không riêng gì tôi mà, hầu như đại bộ phận dân chúng, ai cũng có chung tâm trạng chán ghét chiến tranh. Nay thấy chính quyền Mỹ không chỉ bị thua ngay trên sân nhà với sự phản kháng quyết liệt từ nhân dân mà còn thua ngay trên bàn đàm phán, buộc ông vua “đi đêm” phải cứu lấy nước Mỹ đang tuyệt vọng bằng cách trơ tráo phản bội đồng minh, đẩy người bạn từng ăn chung mâm ngủ chung giường vào chỗ bị hủy diệt cùng với lời nguyền rủa  “ why don’t these people die fast?.(**) Chính từ sự chủ quan nghĩ về một nước Đức thống nhất không có hận thù, tôi vô tình mang đến tai họa cho xếp qua việc chẳng có gia đình, anh em nào dám cứu ông khỏi cảnh tù đày cải tạo.

Thi cắt ngang câu chuyện, hỏi:

– Vì suy nghĩ như thế mà tối hôm hai mươi tám tháng tư, anh đã từ chối lời khuyên ra đi, dù tôi cố khẩn khoản nài nĩ?

– Đúng! Từ nào tới giờ tôi luôn coi sự hiện diện của binh lính Mỹ trên quê hương là sự chiếm đóng. Và, những người lính của chúng ta chẳng hơn gì loại lính đánh thuê.

– Anh nghĩ tôi thế nào khi khuyên anh ra đi?

– Tôi cảm động trước những lời khuyên chân thành của anh, nhưng tôi không tiện nói ra ý nghĩ của mình cho anh hiểu.

– Trái lại, tôi có cảm giác trong sự từ chối đó, hình như anh đã được bảo lảnh từ một tổ chức nằm vùng?

– Phần tôi đã vậy còn anh?

– Trước cuộc tháo chạy tán loạn mấy hôm, gia đình tôi cho người từ quê sang báo: “nếu có bất cứ chuyện gì xảy ra cũng không được nghe lời ai đi đâu hết”. Tôi nghĩ lời nhắn này có lý do của nó vì, bất kỳ gia đình nào sinh sống ở nông thôn, ai chẳng có công giúp đở phong trào kháng chiến Việt Minh qua nhiều thời kỳ. Tin tưởng vào điều ấy, gia đình tôi ngây thơ như một đứa trẻ lên ba vui mừng đón chào ngày chiến thắng. Bất ngờ, chiến dịch đánh tư sản ập tới như một cơn đại hồng thủy, khiến cho những gia đình làm ăn buôn bán trước đây bị cuốn trôi đi hết thảy nhà cửa, đồ đạc thôi chưa đủ mà, còn đẩy họ tới tận chốn thâm sơn cùng cốc.        .

– Anh có buồn hay ân hận gì không?

– Nói như anh thì cả nước này đều bị ân hận chứ chẳng riêng gì gia đình tôi.

– Anh đi học tập bao lâu?

– Hơn ba năm.

– Có bị đuổi đi kinh tế mới?

– Gia đình tôi bị đẩy đi từ trước rồi.

– Sau đó anh làm gì?

– Chạy xe ôm, bán cà rem trên phà, làm ruộng . . . làm nhiều nghề khác nữa. Còn anh?

Tôi nhớ lại thời gian ba ngày học tập cải tạo không tập trung. Ở đó ngoài những bài học chính trị đầy tính chất tuyên truyền ra, lính tráng còn được nghe bọn quản giáo kể về xã hội miền Bắc giàu có, xe hơi nối đuôi chạy dài tít tắp trên đường cao tốc, nhà cửa cao nghệu trên chín tầng mây, dân chúng ra đường không ai phải đi bộ mà, chỉ cần đứng trên các đường băng để tự nó đưa đến tận nơi mình muốn đến. Ngồi nghe mà lòng tôi cảm thấy nao nao, muốn được đi ngay ra miền Bắc, chiêm ngưởng chế độ xã hội chủ nghĩa tuyệt vời biết dường nào. Chả thế, người dân miền Bắc dư ăn dư để, đem hạt gạo bẻ làm tư chi viện cho miền Nam đói khổ vì bị bọn Mỹ ngụy kềm kẹp? Chưa hết, chờ cho những lời giảng ăn sâu vào tim óc người lính thua trận chưa từng biết miền Bắc như thế nào, quản giáo kể mai này khi tiến lên cộng sản chủ nghĩa. Của cải vật chất lúc đó thừa thãi, ai cần thứ gì cứ ra cửa hàng lấy mang về xài? Có tiếng cười khúc khích kèm theo giọng đặc sệt Bắc kỳ vừa đủ nghe của ai đó vang lên sau lưng: “mẹ kiếp, nói như đài. Hãy xem kiểu trốn chạy của dân di cư năm tư như mình mà biết”. Sự thực thế nào đây, có nên tin những gì tai mình vừa nghe, không lẽ miền Bắc thịnh vượng đến vậy, bộ đội ta còn khuân ba cái thứ vớ vẩn như đài, sườn xe đạp, búp bê, rác rưởi ấy về làm gì? Lạ! Còn nói như đài nghĩa là sao, tôi thắc mắc? Lần đầu tiên tôi nghe nói tới cụm từ ngộ nghĩnh như thế. Sau dò hỏi mãi, bộ đội giải thích nó ám chỉ các đài phát thanh chuyên nói láo, bóp méo sự thật.

Nghĩ tới chuyện này, tôi thấm thía cười đến quên mất sự có mặt của Thi đang chờ câu trả lời. Tôi cười chống chế đáp:

– Sau học tập tôi thử vác đơn xin việc khắp nơi, nhưng đi đến đâu cũng bị từ chối khéo khi đọc qua bản lý lịch. Cuối cùng, tôi đành theo bạn bè ra đứng chợ trời kiếm sống. Để bắt đầu công việc, hằng ngày tôi vác đồ đạc trong nhà mang ra chợ bán, sau quen dần gặp gì cũng mua có gì cũng bán vì, ở chợ trời bất kể thứ gì cũng có giá. Mới đầu, tưởng chỉ có những kẻ thất cơ lỡ vận như tôi mới tìm đến đây; không ngờ khi bước ra sân khấu đời, tôi hốt nhiên thân thiết với nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng. Điều này, không làm cho tôi vui mừng mà cảm thấy xấu hổ khi, bỗng dưng được ngồi ngang hàng với những người trước đây mình từng ngưỡng mộ.

– Vì vậy mà người ta gọi đây là một cuộc đổi đời cũng nên.

Từ dưới bến sông, chiếc phà một trăm tấn như con quái vật ồn ào, thổi tung đám bọt trắng xóa quanh mạn tàu, để lại trong tôi cảm giác sợ hãi khi nhìn thấy chiếc miệng khổng lồ của nó đang nhả ra từng đoàn người cùng với những chiếc xe tải nặng nề gầm rú bò lên cầu dẩn.

Không ai bảo ai, tôi cùng Thi lặng lẽ đi theo dòng người, bước xuống đứng ở đầu mũi phà, nhìn con sông Mê-Kông lồng lộng màu phù sa đang chảy tràn một mùa nước nổi từ phía thượng nguồn Biển hồ đổ về, mang theo nguồn lợi cá tôm nhiều vô kể.

Bất ngờ Thi quay sang hỏi tôi:

– Anh định đi đâu?

Tôi chỉ sang phía bên kia sông nói:

– Đến thăm một người bạn văn nghệ. Nghe nói anh ta về đây ở ẩn cùng với chiếc ghe, hành nghề đánh bắt cá hô trên sông.

– Khi nào anh quay về lại đây?

– Có chi không anh?

– Tôi muốn đưa anh đi gặp một người.

– Ai vậy?

– Xếp Văn.

Hình ảnh người chỉ huy cao gầy hiện ra trước mắt tôi với khuôn mặt hồn hậu. Người mà qua ba ngày học tâp cải tạo, quản giáo buộc tất cả mọi người phải khai cấp chỉ huy trực tiếp mình có nhiều nợ máu với nhân dân trong bản thu hoạch. Trớ trêu thay, xếp Văn là người trung thực, thương lính như thương bản thân mình thì ông làm gì có tội. Vì vậy tôi bị quản giáo hạch sách và mắng mỏ vì đã khai tốt cho xếp: “Ai cho phép anh khen bọn này. Nó tốt chỗ nào, một thằng đi lính mang lon thiếu tá, hẳn phải giết không biết bao nhiêu chiến sĩ cách mạng?”. Tôi nghe mà giận run, may có người khuyên hãy nhẫn nhục kẻo thiệt thân nên đành đứng im. Chết! Nếu sợ tôi chẳng đã ở lại. Cầm bản thu hoạch bị trả về, tôi nghĩ phải tìm ra cách viết khác để khỏi hổ thẹn với lương tâm.

– Anh biết xếp Văn ở đâu hả? Tôi mừng rở hỏi.

Thi nói:

– Sau ngày mản hạn tù, bạn bè cho biết, ông ấy đã quay về sống với cha mẹ già nơi quê nhà .

Trước tin tức bất ngờ vừa nghe, khiến tôi đứng ngây người ra nhìn Thi trong một lúc khá lâu. Tôi tự hỏi mình có nghe lầm không? Dù sao, đây cũng là một tín hiệu vui giúp tôi xua tan mặc cảm về lỗi lầm vì đã níu kéo xếp Văn ở lại./

Minh Nguyễn
Nguồn: Tác giả gửi

(* ) Thiếu tá Nguyễn Thành Văn. K Đ 4 KT/ phi trường Bình Thủy.

(**) Lời nguyền rủa từ Kissinger dành cho VNCH  “sao chúng không chết phức cho rồi”.

Đã đóng bình luận.