Đàm Trung Pháp
Nhà thơ kiêm nhà ngoại giao nước Chí Lợi mang bút hiệu Pablo Neruda (1904-1973) đoạt giải Nobel văn chương năm 1971. Tên trên giấy khai sinh của ông là Neftali Ricardo Reyes Basoalto, nhưng từ năm 1946, bút hiệu Pablo Neruda đã được hợp thức hóa thành tên chính thức. Có thể nói Neruda là nhà thơ Nam Mỹ được thế giới biết đến nhiều nhất, và thi tập đầu tay của ông viết năm 20 tuổi đã bán được trên một triệu cuốn và đã được dịch sang hơn 20 ngôn ngữ từ đó đến nay.
Neruda sinh ra trong một gia đình khiêm tốn tại một tỉnh nhỏ miền nam Chí Lợi và bắt đầu làm thơ năm lên 10. Từ năm 1921 ông theo học văn chương Pháp tại Universidad de Chile ở thủ đô Santiago. Năm 1924, mới 20 tuổi đầu, Neruda đã lẫy lừng danh tiếng thế giới sau khi xuất bản thi tập Hai mươi bài thơ tình và một bài ca tuyệt vọng (Veinte poemas de amor y una canción desesperada), dựa vào một mối tình tan vỡ đắng cay. Ba năm sau, Neruda được bổ nhiệm làm lãnh sự tại Miến Điện. Những năm sau đó ông được thuyên chuyển đến các nhiệm sở ngoại giao tại các quốc gia khác ở Á Châu và Âu Châu và tiếp tục viết cho các chuyên san văn học cũng như báo chí. Neruda gia nhập chính trường, đắc cử vào thượng viện, gia nhập đảng cộng sản, từng bị lưu vong, rồi chán ngán chủ thuyết cộng sản sau khi được biết những tội ác tầy trời xảy ra dưới triều đại Stalin. Làm thơ vẫn là mối đam mê lớn nhất của ông. Thi tập Cơ ngơi trên trái đất (Residencia en la tierra) gồm các bài thơ viết từ 1933 đến 1947 nói lên sự suy thoái xã hội cùng sự cô lập cá nhân. Thi tập đồ sộ Bài ca tổng quát (Canto general) gồm 340 bài thơ xuất bản năm 1950 là một thiên anh hùng ca đề cao Mỹ Châu La Tinh. Những năm sau cùng cuộc đời, danh vọng Neruda lại càng lên cao: Ông đoạt giải Nobel văn chương năm 1971 và được cử làm đại sứ Chí Lợi tại Paris từ 1970 đến 1972.
Pablo Neruda đã yêu và sống với vài người đẹp trong cuộc đời. Sau khi chấm dứt mối tình sóng gió với nàng Josie Bliss người Miến Điện có nhiều máu Hoạn Thư, Neruda vào năm 1930 lập gia đình với Maria Antonieta Hagenaar, một phụ nữ Hòa Lan không biết nói tiếng Tây Ban Nha, và hai người ly thân năm 1936. Sau đó Neruda chung sống với họa sĩ Delia del Carril người xứ Á Căn Đình trong một thời gian khá lâu. Năm 1955 Neruda cưới ca sĩ Matilde Urrutia, một người cùng quê quán mà ông quen biết từ năm 1946. Matilde trở thành người vợ sau cùng cũng như Nàng Thơ đích thực của Neruda. Nhà thơ thường yêu dấu gọi Matilde là “cô gái ngát hương miền Chillán” (Chillaneja fragrante) và là “nữ hoàng và mệnh phụ của mọi ngày trong tuần, của mọi thời điểm” (reina y senora de cada jornada, de cada etapa”. Nàng cung cấp thi hứng ngập trời cho những bài thơ trác tuyệt trong các thi tập Những vần thơ người thuyền trưởng (Los versos del capitán) và Một trăm bài thơ tình (Cien sonetos de amor).

Pablo Neruda và Matilde Urrutia
Matilde Urrutia (1912-1976) học âm nhạc từ nhỏ. Theo tài liệu của “Fundación Pablo Neruda” dựa vào lời thân nhân và bạn bè kể lại thì Matilde là một phụ nữ hấp dẫn, tràn đầy nhựa sống, tóc màu hạt dẻ, rất thông minh lanh lợi, tính tình nồng thắm, chơi dương cầm điệu nghệ, hát hay như chim sơn ca, thích bơi lội và trồng hoa. Nàng gặp Neruda lần đầu tại Âu Châu năm 1946, và khi hai người tái ngộ năm 1949 tại Mễ Tây Cơ thì nàng nhất quyết bỏ hết mọi chuyện để từ đó luôn sống bên chàng! Lúc này Neruda đang tỵ nạn chính trị và trên giấy tờ vẫn là chồng của họa sĩ Delia del Carril. Tình yêu tuyệt vời của Matilde đã giúp Neruda vượt khỏi những khó khăn gây ra bởi chính trị cũng như bệnh hoạn. Cặp tình nhân sau đó sống những ngày tháng êm đềm tại Đảo Capri trên Địa Trung Hải. Chính tại đây, Neruda đã viết những bài thơ tình tuyệt vời cho Matilde trong thi tập Los versos del capitán xuất hiện năm 1952. Cũng trong năm ấy Neruda được phép trở về Chí Lợi. Năm 1959 Neruda cho xuất bản thi tập Cien sonetos de amor cũng để tặng Matilde, người mà thi nhân âu yếm gọi là “ánh sáng ban ngày và ban đêm của tôi” (mi luz de día y de noche).
Trong phạm vi nhỏ hẹp của bài viết này, tôi chỉ xin được chuyển sang tiếng Việt một số bài mà tôi cho là tuyệt đẹp trong thi tập Los versos del capitán. Thi tập này được Neruda cho phổ biến để ghi khắc thời gian thi nhân đang đắm say trong lưới tình của Matilde, lúc mà quả thực “yêu em anh làm thơ”! Yêu đến nỗi thi nhân viết cả những lời thơ cho nàng lên trên … khăn lau miệng trong tiệm ăn! Neruda là một người viết thơ tình rực lửa. Những bài thơ chứa chan tình ái này chứa đựng nhiều hình ảnh chân thực và cực kỳ thân mật qua một lối viết khi thì nhẹ nhàng êm ái, lúc thì chất ngất đam mê hoặc bâng quơ hằn học. Trong những bài này, Neruda diễn tả ý thơ một cách rất giản dị, rất bộc trực, và do đó thơ của ông có thể được chuyển ngữ dễ dàng mà không sợ bị mất đi giá trị nguyên thủy. Mời quý bạn đọc thưởng thức một vài bài thơ tình Pablo Neruda viết cho Nàng Thơ bằng da bằng thịt của ông mang tên Matilde Urrutia mà tôi mạn phép chuyển sang tiếng Việt.
Nữ hoàng
Anh đặt tên em là nữ hoàng.
Có những người cao hơn em.
Có những người băng trinh hơn em.
Có những người yêu kiều hơn em.
Nhưng em là nữ hoàng.
Khi em quá bộ ra phố
không ai nhận ra em.
Không ai thấy vương miện của em, không ai
thấy tấm thảm bằng vàng đỏ
trải ra để chân em bước tới,
tấm thảm vô hình.
Nhưng khi em xuất hiện
tất cả những giòng sông náo động
trong thân anh, những tiếng chuông
lay chuyển cả bầu trời,
và một bài thánh ca ngập tràn thế giới.
Chỉ có em và anh,
em yêu ơi, chỉ có em và anh
lắng nghe bài thánh ca ấy.
Hai bàn chân em
Khi anh không nhìn được mặt em
anh ngó đôi bàn chân em.
Đôi bàn chân bằng xương uốn cong,
đôi bàn chân xinh xinh cứng cáp.
Anh biết chúng chống đỡ em,
và cả tấm thân em
vươn lên từ chúng.
Eo bụng và ngực em,
Đôi núm nhũ hoa mầu tím,
hốc mắt sâu, miệng thơm mùi trái cây,
suối tóc hung hung đỏ,
tháp nhỏ của anh.
Nhưng anh yêu đôi bàn chân em
chỉ vì chúng đã lê bước
trên đất và trong gió và trên nước,
cho đến khi chúng kiếm ra anh.
Tiếng em cười
Nếu em muốn, hãy lấy đi thức ăn,
hãy lấy đi không khí , nhưng
chớ lấy đi tiếng em cười khỏi anh.
Đừng lấy đi nụ hồng em đã hái,
Những giọt nước long lanh
Vì em vui mà bộc phát.
Cuộc đấu tranh khổ ải, anh trở lại
với đôi mắt mệt mỏi vì đã
thấy cuộc đời không thể đổi thay,
nhưng tiếng em cười
khi vang lên không trung
đã mở ra cho anh tất cả
những cánh cửa cuộc đời.
Em yêu, trong giây phút tối tăm nhất
tiếng em cười hãy cho anh bám víu, và nếu bất chợt
em thấy máu anh nhuộm đỏ con đường,
em hãy cười lên, vì tiếng em cười
sẽ là thanh kiếm mới trong tay anh.
Bên cạnh biển trong mùa thu,
tiếng em cười sẽ dâng cao làn sóng bạc đầu,
và trong mùa xuân, em yêu,
anh thèm tiếng em cười
như đóa hoa anh mong đợi,
đóa hồng xanh vang vọng quê hương.
Em hãy cười ngạo buổi tối,
ban ngày, ánh trăng, những con đường
ngoằn ngoèo trên đảo,
hãy cười ngạo chàng trai trẻ này đang yêu em,
nhưng khi anh trở lại,
em có thể không cho anh thức ăn,
không khí, ánh sáng, mùa xuân,
nhưng đừng bao giờ lấy đi tiếng em cười
vì thiếu nó anh sẽ chết.
Vắng mặt
Anh đã kịp xa em đâu
mà em đã lại đến với anh, tươi sáng như pha lê,
hoặc run rẩy, lo âu, như thể bị anh gây thương tích,
hoặc choáng ngộp ái ân, như lúc mắt em
khép kín khi nhận lãnh quà tặng cuộc đời
anh không ngừng mang đến cho em.
Em yêu,
chúng mình kiếm ra nhau
trong cơn khát nên đã
uống cạn luôn cả nước và máu,
chúng mình kiếm ra nhau
lúc đói lòng
nên đã cắn nhau như lửa
để lại trong nhau những vết thương.
Nhưng hãy đợi anh,
giữ cho anh những ngọt ngào.
Anh cũng sẽ tặng em
một đóa hoa hồng.
Mãnh hổ
Anh là mãnh hổ
rình em trong đám lá
rộng như những phiến
kim loại ướt.
Giòng sông trắng nước dâng cao
dưới lớp sương mù. Em đến.
Trần truồng em ngụp lặn.
Anh vẫn chờ.
Rồi trong một nhảy vọt
bằng lửa, máu, răng,
với móng vuốt anh xé tan
ngực em, háng em.
Anh uống máu em, anh bẻ gẫy
chân tay em từng chiếc một.
Và anh ở lại nhiều năm
trong rừng để canh chừng
đám xương em, tro em,
bất động, cách biệt khỏi
căm hờn và phẫn nộ,
được những chùm dây leo phủ kín,
bất động trong mưa,
tên lính canh trai đá
một cuộc tình sát hại.
Mãi mãi
Đối diện em
anh không ghen tuông.
Hãy đến với một tên đàn ông
trên vai em,
đến với một trăm tên đàn ông trong tóc em,
đến với một ngàn tên đàn ông giữa ngực và chân em,
đến như một giòng sông
tràn ngập những tên đàn ông chết đuối
sắp trôi ra biển dữ
bọt trắng phau.
Mang tất cả
đến chỗ anh đợi em:
chúng ta sẽ mãi mãi cô đơn,
chúng ta sẽ mãi mãi, em và anh,
cô đơn trên trái đất
để bắt đầu cuộc sống.
Pablo Neruda
Đàm Trung Pháp
Nguồn: Tác giả gửi
Tài liệu tham khảo
Belitt, B. (1961). Selected poems – Pablo Neruda. New York: Grove Press.
Merwinn, W.S. (1993). Pablo Neruda – Twenty love poems and a song of despair. New York: Penguin Books.
Neruda, P. (1991). Veinte poemas de amor y una canción desesperada. Madrid : Alianza Editorial.
Tapscott, S. (1986). One hundred love sonnets by Pablo Neruda. Austin: University of Texas Press.
Walsh, D.D. (1972). Pablo Neruda: The captain’s verses. New York: New Directions Publishing Corporation.


















