Cẩm An Sơn
Phượng thức giấc khi trời bên ngoài đã sáng rõ. Gần suốt đêm qua chị thao thức mãi, không ngủ được, cho đến gần sáng, mệt mỏi quá chị mới chợp mắt được một lúc. Phượng quay sang bên cạnh, hai đứa con : thằng Phúc và con Mai vẫn còn đang say trong giấc ngủ, hơi thở chúng phập phồng dưới tấm chăn mỏng. Nhìn khuôn mặt hai đứa con thân yêu đang trong giấc ngủ, gương mặt chúng vô tư, trong sáng như những khuôn mặt trẻ con in trên những tờ lịch, mà có lần chị đã nhìn thấy treo trên từơng của một căn nhà nào đó ở thành phố. Lòng Phượng quặn đau, nghĩ đến người chồng đã khuất và nỗi bơ vơ của mẹ con chị trong những tháng ngày gian khó.
Tâm, chồng Phượng trước kia là một sĩ quan trong quân đội, sau 75 phải đi tù gần ba năm mới được thả về. Anh trở về với một tấm thân còm cõi, cánh tay trái bị thương tật trong một tai nạn lao động lúc còn ở tù ngoài Bắc – nhờ tai nạn ấy nên anh mới được thả về vì không còn sức khoẻ để làm ra của cải vật chất cho trại tù nữa – Anh trở về thăm phố cũ một ngày rồi nhận giấy tờ về sống với Phượng tại một vùng kinh tế mới gần Suối Nghệ cách Bà Rịa khoảng vài chục cây số. Quê hương mới cuả Tâm và Phượng là một xóm nghèo với hơn chục căn nhà tranh vách đất, trong một khoảng rừng thưa bỏ hoang đã lâu. Phượng đã phải tình nguyện đến nơi này để Tâm được thả về. Hai vợ chồng đoàn tụ bằng những bàn tay chai phồng nắm lấy nhau nghẹn ngào.. Mồ hôi lại đổ xuống hàng ngày cho căn nhà nhỏ dần ấm lên, những luống khoai, luống đậu, xanh theo nắng mưa nhiệt đới, hai đứa con cũng ra đờI ở đó, xanh xao, ốm yếu như những cây khoai mì trồng đi trồng lại trên khoảnh đất đã lâu không được biết mùi phân bón.
Phượng ngồi dậy nhìn ra ngoài. Ánh nắng buổi sáng mùa hè đã rọi vàng trên những ngọn cây trong khu rừng phía xa. Không gian êm ắng không một tiếng động nhỏ. Dường như có tiếng chim hót đâu phía sau nhà. Chị kéo tấm manh chiếu cũ dưới đuôi giường, nhẹ nhàng đắp thêm lên bụng hai đứa trẻ. Thằng Phúc khẻ cựa mình rồI quay người nằm nghiêng, quàng tay sang ôm bụng bé Mai. Rời khỏi hơi ấm của mẹ, bé Mai cũng co người lại rồi ngủ tiếp. Phượng nhìn con, vói tay sửa lại miếng nylon màu đen che kín khung cửa sổ cho khỏi chói rồi uể oải đứng dậy, quờ chân tìm đôi dép mủ, rồi chậm chạp đi về phía bếp. Kéo chiếc cây nhỏ cài ngang qua hai cột tre, chị hé mở cánh cửa bằng thiếc cũ, rồi nghiêng mình lách ra ngoài.
Khung cảnh quen thuộc đập vào mắt Phượng, những căn nhà tranh tồi tàn lụp xụp bỏ hoang từ nhiều tháng qua, vớI những cánh cửa đổ nát, những vách đất loang lổ màu đất đỏ trộn rơm, trơ sườn, lạnh lẽo. Chị thoáng rùng mình, mắt chị hoa lên, và đôi chân run run như muốn vật ngã chị xuống, bụng cồn cào vì đói. Phượng chợt nhớ lại, từ trưa hôm qua đến nay chị chưa ăn một miếng nào vào bụng. Chỉ còn một lon gạo duy nhất, buổi tối chị đã nấu phân nửa, ghế vào đó hai củ khoai lang nhỏ, dành cho hai đứa con ăn. Nhìn chúng ăn uống ngon lành với mấy cộng rau dền luộc chấm nuớc muối, chị thấy xót xa trong lòng.
Tựa lưng vào cây cột tre phía sau bếp, Phượng nhìn qua bên kia hàng cây keo thấp, bà Tám già cũng đã thức dậy, đang ngồi khâu áo ngoài sân nắng. Chị nghĩ đến thân phận những người nghèo, những người già cô đơn, sống lặng lẽ với những tháng ngaỳ còn lại của cuộc đời. Bà Tám đã trên bảy mươi tuổi, chẳng hiểu từ đâu trôi giạt về đây, sống nhờ vào sự đùm bọc của những người nghèo khó chung quanh.
Trước đây, khi còn đủ mười mấy gia đình sinh sống trong cái xóm nghèo khốn khổ này, bà Tám thường lân la phụ việc cho mọi người, để có được chén cơm trộn nhiều bắp khoai hàng bữa với họ. Buổi tối, bà Tám nằm ngủ với chiếc bao bố cũ quấn lại, ở một góc nhà nào đó với miếng sọt tre hoặc mảnh đệm cói lót lưng. Một bữa, có người bỏ đi, bà Tám vào ngụ hẳn trong căn nhà trống, tạo được một chỗ nương tựa cho mình.
Nét mặt đầy nếp nhăn, hàm răng rụng gần hết, bà Tám chỉ còn đôi mắt hiền lành nhìn cuộc đời, cái nhìn gần như vô tư lự của một đứa trẻ con sống bình yên trong cuộc đời phẳng lặng. Bà rất ít lời, chỉ gật và lắc đầu để đáp lại những câu hỏi. Không một lời than van hay cầu xin nào được thốt ra, dù có nhiều ngày mọi người quên nhắc đến bữa ăn của bà.
Hồi mới đến đây, hai vợ chồng Phượng đã gắng sức phấn đấu cho cuộc sống. Tuy cánh tay trái gần như bị liệt hẳn, Tâm vẫn kẹp được cái cán cuốc, cùng tay phải cuốc xới, vun hàng lên liếp, trồng khoai tỉa đậu. Trong mấy năm liền cuộc đời có vẻ khá lên nhờ thuận mùa mưa nắng. Và những sản phẩm làm ra được những anh xe thồ bên ngoài vào thu mua, đổi chác. Gia đình Phượng cũng như mọi người ở đây đã có cái ăn cái mặc. Chị đã cho ra đời thằng Phúc, rồi bé Mai, trong cảnh nghèo nhưng đầm ấm. Vợ chồng Phượng như những kẻ mồ côi, hai bên gia đình cũng đều thất lạc sau biến cố tháng Tư. Chị nghĩ đến việc học, tương lai của các con, và mơ ước có ngày gặp lại được thân thích họ hàng. Xóm nghèo sống với nhau có nghiã có tình nên cũng dễ chịu. Dù không nói ra, nhưng mọi ngừơi đều nghĩ đến một ngày mai khá hơn sẽ chuyển dần ra gần lộ, cuộc sống hiện tại vất vả nhưng yên lành, không hội họp. không hộ khẩu, không cần đến cả một thứ giấy tờ nào. Rừng vẫn hiền lành, không có bóng thú dữ.
Nhưng rồi, đùng một cái, gia đình bác Châu có hai đứa con trai bị rắn độc cắn chết. Gia đình anh Cư trong lúc đi làm rẫy vào trú mưa trong túp lều nhỏ, chị Cư bị sét đánh cháy cả thân mình. Cả xóm yên lành bỗng trùm lấy tấm khăn tang to lớn. Vài ba tuần sau đó, gia đình bác Châu, dắt đứa con gái duy nhất còn lại, ghé thăm từng nhà và từ giả bà con về lại Lái thiêu. Rồi anh Cư cũng đành bỏ mộ vợ lại trên mảnh sân nhỏ của mình, dẫn con tìm về quê Châu đốc.
Cuộc sống trở nên khó khăn và buồn tẻ dần. Lâu lâu mới có một bác xe thồ chở vào xóm một ít gạo mắm, để đổi chác khoai đậu. Mọi người như sống ở một thế giới nào khác, cách biệt với xã hội bên ngoài. Bệnh tật, ốm đau được chữa bằng một nắm lá ngải cứu, nắm lá sả, hoặc lá tía tô. Rồi từng nhà một âm thầm từ gỉa xóm nghèo, sau khi có người thân nằm xuống vĩnh viễn ở khu mộ nhỏ trên khoảnh sân của mỗi gia đình. – Người ta chôn người chết ngay trong sân nhà, tưởng để được gần gũi, nhưng cuối cùng rồi người sống cũng đành phải nuốt nước mắt rời xa.
Hai tháng truớc, Tâm cũng đột ngột ra đi sau một cơn sốt ác tính, bỏ lại mẹ con Phượng bơ vơ với xóm nghèo vắng lạnh. Không còn ai nữa ngoài bà Tám gìa nua với ba mẹ con Phượng. Chị cũng đã tưởng mình không sống nổi sau một trận đau kéo dài nhiều ngaỳ. Có lẽ Trời còn nghĩ đến hai đứa con nhỏ của Phượng, nên cho chị gượng lại đuợc. Chị gắng ngoi lên giữa nỗi đau mất chồng và lòng thương yêu hai đứa con thơ dại.
Bao nhiêu lương thực dành dụm cũng cạn dần. Những cơn mưa đầu mùa đã đổ xuống mươi ngày qua, cỏ dại cũng đã mọc lên, nhưng Phượng thì không còn đủ sức để ra vườn trồng tỉa được nữa, hạt giống cũng đã hết. Nhiều đêm khóc thầm trong bóng tối, Phượng nghĩ đến cái chết, nhưng rồi chị tự hỏi mình về hai đứa con vô tội. Bốn hôm trước, trong lúc lục soạn lại mớ đồ cũ linh tinh của Tâm để lại, tình cờ Phượng bắt gặp một ống đựng thuốc, trong đó có ba viên thuốc lớn mầu đỏ. Chị đoán có lẽ là loại Chloroquine chống sốt rét, mà ngày trước quân đội thường dùng mỗi khi hoạt động trong vùng rừng núi. Loại thuốc này rất mạnh, uống một lần quá hai viên có thể mất mạng. Phượng nghĩ, nếu bây giờ chị nốc vào ba viên thuốc đó, chắc chắn chị sẽ được đi theo chồng về bên kia thế giới. Chị mơ màng nghĩ đến một thế giới khác, ở đó vợ chồng chị sẽ được sống với nhau những tháng ngày êm ả, những tháng ngày không có những đe doạ thường nhật bằng manh áo miếng cơm.
Có tiếng bé Mai goị :
– Mẹ ơi
– Mẹ ở đây, con.
Con bé mở cánh cửa bếp chạy ra ôm lấy chân Phượng. Thằng Phúc cũng chạy theo sà vào lòng mẹ. Phượng ngồi xuống ở góc sân nhà hai tay ôm lấy hai đứa con. Chị nói :
– Trưa nay ăn cơm xong mẹ sẽ dẫn hai đứa đi chơi dưới Suối nghệ nhe.
– A, vui quá hả mẹ. Hai đứa cùng reo lên.
Hơn bảy tuổi rồi mà thằng Phúc ốm tong teo, nhỏ nhắn như đúa bé chừng năm tuổI, bé Mai hơn ba tuổi, giọng nói rõ ràng nhưng đôi chân yéu, chạy một chút là mệt. Tay ôm con, Phưọng lại nhìn về phía góc sân, nơi Tâm đã an nghỉ. Nấm mộ thấp, không có lấy một gốc cỏ, ngày nào chị cũng dành ít phút đi vòng quanh nấm mộ để nhổ từng cộng cỏ mới mọc. Bây giờ thì hết rồi, cỏ dại rồi sẽ mọc đầy trong những tháng ngày sắp tới. Chị nghĩ mông lung sau cái chết của chị, cái chết mà Phượng đã đắn đo suy nghĩ và quyết định sắp đặt sẵn cho mình.
Không phải vì ích kỷ, sợ sống, sợ khổ, nhưng Phượng nghĩ đến tương lai của hai đứa con thân yêu của mình. Chắc chắn rồi chúng sẽ được một gia đình nào đó thay chị săn sóc, nuôi nấng chúng. Dù có ai nghèo khó, cũng không thể nghèo khó hơn chị, mai đây nếu có gặp chồng bên cõi chết, chắc chồng chị cũng sẽ không hờn trách, mà sẽ hiểu được lòng dạ của chị, vì con mà quyết không kéo dài kiếp sống kham khổ, để hai đứa con phải gánh chịu lây, mình không nuôi được thì hãy giao cho ngườI khác chăm lo cho chúng. Cũng có lúc Phượng nghĩ dến việc bỏ nhà, bỏ xóm, dắt con về thị trấn ăn xin, nhưng rồi chị cảm thấy mình không có quyền gây nỗi tủi nhục cho con mình. Chị ấm lòng nhớ lại những tháng ngày qua sống trong xóm nghèo, mọi người dều thiếu thốn bạc tiền, nhưng lúc nào cũng giầu tình nghĩa. Vợ chồng chị hiền lành, thì mai đây chắc con cái chị cũng không đến nỗi bạc phước.
Tiếng Phúc cắt ngang dòng suy nghĩ của Phượng.
– Mẹ ơi, vào nấu cơm ăn đi, con đói rồi.
Bé Mai cũng nũng nịu :
– Ăn cơm rồi mẹ dẫn con đi chơi xa nghe mẹ.
Lòng Phượng thắt lại. Chị buông hai đứa con ra rồi vịn vai thằng Phúc, gượng đứng lên, ba mẹ con cùng vào trong nhà.
Sau bữa ăn trưa, Phượng soạn trong thùng gỗ đựng quần áo, lấy từ dưới đáy thùng ra hai bộ quần áo còn khá mới, mặc vào cho hai con. Bộ quần áo tuy ngắn củn cởn, nhưng cũng đủ làm cho hai đứa bé sung suớng. Đó là món quà của chị Châu tặng lại, truớc khi vợ chồng chị ấy bỏ xóm nghèo tìm về quê ngoài Phan Rí. Hai đứa nhỏ mặc quần áo đẹp, chạy đùa với nhau lòng vòng quanh chiếc sạp tre giữa nhà.
Với tay lấy chiếc giỏ lác, Phượng xếp vào đó tấm ny lông che mưa, mấy củ khoai luộc, chai nứơc đun sôi để nguội, chị liên tưởng đến chuyến đi. Đoạn đường khá dài khoảng bốn năm cây số từ xóm ra đường mòn, ba mẹ con đi chắc cũng mất vài tiếng đồng hồ. Con đường mòn naỳ bắt đầu từ ngoài lộ rất xa, chạy vào xuyên qua rừng đi vào vùng sâu, là noi những người thợ rừng chuyển củi, chuyển tre nứa, những ngừơi đi hái nấm, bẻ măng hàng ngày đi, về. thỉnh thoảng cũng có những chiêc xe cộ, xe bò cọc cạch qua lại. Phựơng nhẩm tính trong bụng, hơi lo lắng không biết chị và các con liệu có thể đi nổi đến đó không.
Trời bên ngoài nắng dịu. trên không, những đám mây đen choán hết những khoảng rộng, báo hiệu những cơn mưa giông vào buổi chiều. Phượng dắt con ra ngoài và bắt đầu lên đường, chị nghĩ, không còn một thời gian nào khác cho sự chọn lựa. Lần đầu tiên được cho đi chơi xa, Phúc và bé Mai vui mừng lắm, chúng vừa đi vừa chạy. Một lát, lại ngồi xuống bên bờ cỏ thở mệt và đợi cho mẹ đi tới. Phượng thì yếu, chị bước chậm rãi từng bước một. Trận đau kéo dài dai dẳng, thêm việc thiếu ăn làm cho chị mất gần hết sức lực.
Rồi cuối cùng, sau rất nhiều chặng nghỉ, mẹ con Phượng cũng tới được con đưòng đất đỏ. Đến một gốc cây to bên đường, nơi có mấy tảng đá bằng phẳng, chị ngồi xuống nghỉ chân., hai đứa bé cũng đã thấm mệt. Ngồi một lúc, Phượng kéo chiếc giõ lác lại gần Phúc rồi bảo :
– Bây giờ hai anh em ngồi ở đây chơi nhe. Chờ mẹ quay lại lấy tiền, mẹ đã để quên ở nhà rồi.
Phúc ngây thơ hỏi :
– Mẹ cũng có tiền hả mẹ? Lâu nay con đâu thấy mẹ mua gì?
– Ừ, mẹ có tiền mà để dành nay mới lấy dẩn các con đi chợ mua bánh, mua kẹo cho các con.
Bé Mai cười reo :
– Sướng quá, mẹ nhớ mua thật nhiều kẹo, nhiều bánh cho con nhe, cả bánh tráng nữa nghe mẹ. Con thèm bánh tráng lắm, lâu nay mẹ cũng không làm bánh tráng khoai mì nữa.
Lời nói của bé Mai như những chiếc kim đâm sâu vào lòng Phượng, Chị cảm thấy mình có tội nói dối với con, nói dối một cách ngọt ngào, gợi cho đứa con bé bỏng của mình những thèm khát, dù chút thèm khát tầm thường của con trẻ, mà chị đã không thể đem đến cho chúng.. Phượng vội vã quay trở lại con đường cũ không dám đứng lại đó lâu hơn, chắc chắn chị sẽ khóc, và mọi dự tính của chị rồi sẽ tiêu tan. Con đường trở về nhà chừng như dài dằng dặc, Phượng còn yếu sau những cơn sốt hành hạ, bây giờ lại mang thêm nỗi đau đớn vì đã đem con mình ra bỏ bên đường.. có đôi lúc chị muốn trở lại với con, để cùng liều với số phận, nhưng rồi chân chị vẫn chậm chạp buớc đi, khập khiểng, run rẩy. Phượng lại nghĩ đến ba viên thuốc, số phận các con chị phải được tách lìa khỏi cuộc đời hẩm hiu, khốn khổ của cha mẹ chúng. Chị lâm râm khấn nguyện Trời Phật và cả linh hồn của chồng chị, xin rũ lòng thương phò hộ cho các đứa con bé bỏng của chị, trên đường lưu lạc gặp được những điều may mắn.
Bầu trời tối sầm. Mưa ào ào đổ xuống. Phượng hình dung hai đứa bé đang ngồi sát bên nhau trên tảng đá. Tấm ni lông tuy cũ nhưng còn lành lặn đang trùm kín lên đầu chúng. Đối với con chị, dầm mưa, tắm mưa là chuyện bình thường, nhưng chị thầm nghĩ, chiều nay có lẽ sẽ mưa nhiều vi bầu trời gần đen kịt như mực. Đã tới nhà rồi, Phượng vào nhà với bộ quần áo ướt đẫm, và để khỏi phải suy nghĩ lâu, chị bước vội lại bên bếp, vói tay rút từ trong ống tre ra gói giấy có đựng mấy viên thuốc, xé rách giấy trút hết vào miệng. Những viên thuốc có bọc đường ngòn ngọt, chị trệu trạo nuốt từng viên một.iSau khi uống thêm một cốc nước, Phựơng để nguyên bộ quần áo ướt, nằm vật xuống chiếc giường tre.
Phượng nằm yên một lúc lâu. Có lẽ chút đường ngọt ngào bọc ngoài viên thuốc thấm vào trong cổ chị, làm chị bỗng thấy tỉnh táo một cách lạ lùng. Chị nghĩ có lẽ linh hồn của những ngườI sắp chết cũng tỉnh táo, nhẹ nhàng như vậy. Hôm sau, hoặc vài ba bửa nữa, bà Tám già cô độc hàng xóm của chị, sẽ ghé qua nhà và có thể sẽ bỏ mặc cái xác chị nằm đó, hoặc sẽ gắng kéo xác chị ra sân, rồi moi đất lấp lại. Thế là xong. Một lát nữa đây, trong đám người đi rừng về sẽ có ngườI bắt gặp hai đứa con của chị, và tối nay, dù không có mẹ, chắc chúng sẽ được ăn một bửa cơm no. Bé Mai, thằng Phúc rồi sẽ khóc nhiều vì nhớ mẹ, nhưng rồi chúng sẽ dần quên đi, quen với cuộc sống mới.
Bỗng có lằn chớp sáng rực đập ào trên mái lá, tiếp theo là tiếng sét nổ đinh tai. Lổ tai Phượng lùng bùng. Chị ngồi dậy nhìn ra ngoài trời. Mưa như thác cùng với gió giật từng hồi như muốn làm sập căn nhà nhỏ. Thốt nhiên Phượng nhớ đến con một cách mãnh liệt. Chị đứng lên, sao bỗng dưng chị cảm thấy mình mạnh khỏe trở lại. Chị kêu lên; Mai ơi, Phúc ơi. Còn đâu những đứa con đói khổ thân yêu của chị. Phượng quơ vội tấm ny lông che cửa trùm lên đầu, rồi chạy băng ra ngoài sân. Chị quyết định phải gặp lại con trước khi chết, đằng nào thì những viên thuốc cũng đã được uống rồi. Cái chết cầm chắc sẽ đến với chị. Phượng muốn nhìn thấy hai đứa con thân yêu một lần cuối. Chị gắng chạy, con đường trơn trợt làm chị té lên té xuống nhiều lần. Cuối cùng rồi chị cũng ra đến bìa rừng. Trong ánh chớp sáng rỡ, Phựơng thoáng nhìn thấy một đống đen đen trên tảng đá dưới gốc cây xa, chị gọi lớn con ơi. Bỗng dưng đầu óc chị quay cuồng, chị ngã phịch xuống đường. Vùng vẫy trong cơn mưa, Phượng vẫn không ngồi dậy nổi, chị lồm cồm gắng bò về phía trước. Mắt chị bỗng hoa lên, mờ đi. Chị vẫn cố bò tới, lết tới… Chỉ được một đoạn ngắn, rồi Phượng bật nằm daì ra, ngất đi.
Gió mưa, sấm chớp vẫn gầm thét.
Trong vũng tối mịt mù đó, hình như có một chiếc xe bò, lọc cọc, lắc lư từ phía ngả rừng vừa đi tới trong ánh chớp. Tiếng một người đàn ông la lớn; hò hò. Con bò kéo có chiếc u thật lớn trên cổ, bước chậm lại và dừng ở giữa đường…
Khi Phượng tĩnh dậy trời bên ngoài đang còn tối. Một ngọn đèn dầu chừng lớn hơn hạt lúa, leo lét cháy, tỏa ra một thứ ánh sáng lù mù không thể nhìn thấy được gì, nhưng Phượng cũng nhận ra rằng mình đang nằm trên một chiếc giường tre nhỏ. Chị khẻ cựa mình và trí nhớ cũng như vừa trở lại, chị cử động hai bàn tay vớI những ngón tay, rồi véo vào cánh tay mình, chị cảm thấy đau và biết chắc rằng chị còn sống. Toàn thân chị rã rời như vừa qua một cơn sốt nặng. Chị rùng mình và nghĩ rằng chị vừa đi qua cái chết, cái chết do chính chị đi tìm, để trốn trách nhiệm với xã hội, với chính những đứa con thân yêu cuả mình.
Phượng nghĩ thầm, có lẽ chị đã được người ta đưa đi nhà thương súc ruột cứu sống, Nhưng sao bây giờ lại nằm đây, đây là nhà ai, nơi nào, và hai đứa con chị giờ ở đâu? Những câu hỏi ấy dồn dập ùn đến trong đầu Phượng và chị chống tay xuống giường, gượng ngồi dậy, song không được, chị cảm thấy chẳng còn một chút hơi sức nào. Nhớ đến hai đứa con thân yêu, Phượng chợt có cảm giác như ai vừa đưa tay bóp mạnh trái tim chị, Phượng thét lên một tiếng và ngất đi.
Tiếng thét của Phượng tuy không lớn nhưng đủ đánh thức một ngưòi đàn ông nằm gần đó vùng dậy. Đó là Quang, chủ căn nhà. Anh vội vã bước tới phía giường Phượng nằm, cúi xuống nhìn chị, ngưòi đàn bà mắt vẫn nhắm nghiền nhưng hơi thở hổn hển, nhọc mệt. Có lẽ chị vừa nằm mơ một chuyện gì khủng khiếp. Kéo tấm chăn mỏng đắp lên người chị, Quang thở dài quay về phía chỗ nằm của mình.
Buổi chiều, sau khi chất mấy bó củi lên chưa đầy nửa xe thì trời đổ mưa, anh vội vã giong xe ra đường mòn, trở về nhà. Vừa ra khỏi bìa rừng, anh trông thấy một nguời đàn bà nằm rũ bên lề đường giữa cơn mưa lớn, anh dừng xe bế xốc chị lên, đặt chị nằm vào khoảng trống của chiếc xe, cởi tấm quàng mưa phủ lên người chị, rồi gịuc con bò tiếp tục đường về.
Phải mất gần một tiếng đồng hồ dầm trong mưa gió, Quang mới về đến nhà.
Thấy anh về với bộ quần áo đẫm nước, mẹ anh hỏi :
– Chớ áo mưa con đâu mà để uớt hết vậy?
Chẳng kịp trả lời mẹ, Quang chạy vội vào trong nhà, cuốn gọn tấm chiếu trên chiếc giường nhỏ của anh, để trống tấm vạc giường tre, rồi ra xe bồng người đàn bà cùng vói tấm quàng ni lông, đem vào đặt nằm trên đó.
Bà mẹ hoảng hốt :
– Sao lại thế này? Ai vậy con?
– Mẹ lấy quần áo của mẹ thay cho cô ấy dùm con một chút, cô ấy bị ướt mê man có đến mấy tiếng đồng hồ rồi đó.
Bà mẹ cũng không hỏi nữa, vội vàng đi tìm áo quần, rồi đến chỗ nằm của người đàn bà cúi xuống làm việc cuả mình, trong khi Quang trở ra sân đưa xe về phía sau nhà, mở càng xe, dắt con bò vào chuồng, bỏ cho nó mấy gùi rơm.
Người đàn bà đó là Phượng. Bấy giờ Quang mới kể lại cho mẹ nghe chuyện tình cờ gặp Phượng nằm ngất bên đường, giữa mưa buổi chiều. Xong, anh đi thay quần áo ướt, rồi mới tìm cơm ăn. Bà mẹ lại lấy than quạt một mẻ lửa nóng đem đặt dưới giưòng chỗ Phượng nằm. Thỉnh thoảng bà lại đến bên giường, sờ thử vào ngực Phượng xem chị còn thở không, nghe nhip tim chị vẫn dập đều đều, bà mới yên lòng.
Hai mẹ con bà Tư sống ở đó đã lâu. Một căn nhà gỗ nhỏ trong một khu vừơn rộng chừng một sào, có trồng một ít chè, một ít tiêu và một số cây ăn trái như chôm chôm, sầu riêng. Ông Tư mất cách đây mấy năm, trong thời gian Quang còn đang học tập cải tạo. Quang vốn là một Trung Uý Hải quân, làm Giang đoàn trưởng vùng sông rạch Cà mau suốt mấy năm liền, anh bị bắt và lang thang từ Xuyên Mộc, Long Giao, Suối Máu và cuối cùng về nằm trụ tại Z30, cho đến ngày được phóng thích. Thời gian đầu còn ở gần, mẹ anh vai mang tay xách đi thăm nuôi vài ba tháng một lần, đến khi ông Tư mất, bà đành phải bỏ thăm con luôn.
Ngày anh về với tuổi đời gần bốn mươi, tóc Quang đã lốm đốm nhưng sợi bạc. Gia sản còn lại là mảnh vườn nhỏ, con bò đực ốm yếu, anh cần cù nuôi thân và nuôi mẹ già, những cuộc tình thời tuổi trẻ, theo vận nước trôi xa. Bà Tư thương con, cũng muốn cho Quang lấy vợ, đẻ con cho bà có cháu để ẳm để bồng, nhưng cuộc sống quá khó khăn nên cũng không muốn nhắc đến chuyện vợ con sợ làm Quang thêm buồn.
Từ hơn một năm nay Quang thường bàn với mẹ về chuyện vượt biên, vì đã có rất nhiều bạn bè của anh đã ra đi trót lọt. Cái khó của anh là không có vàng, không có cây, không có chỉ thì không làm sao đi đuợc. Một vài người bạn của anh ở Phước Tĩnh hứa sẽ giới thiệu anh cho một vài chủ ghe cần người rành về đường biển, mà anh thì chuyện hải đồ, hải hành anh rành như cơm bữa, tiếc một điều là khôngcó cái la bàn để dễ dàng thuyết phục các chủ ghe thuê mướn. Anh đã nói với bạn là sẽ không nhận tiền công, chỉ cần cho mẹ con anh cùng ra đi một lần là được. Quang biết chắc rằng, thế nào rồi cũng sẽ có người đến tìm anh, nhưng chuyện thuyết phục cho mẹ cùng đi là một điều khá rắc rối. Mẹ cứ baỏ con muốn đi thì đi, phần mẹ già rồi, mẹ muốn sống gần gũi vớI ngôi nhà mà ông bà đã sống với nhau mấy chục năm qua, bà cũng không nỡ rờI xa mộ người chồng mới mất chưa được mấy năm.
Và bây giờ thì tình cờ anh lại mang về nhà một người đàn bà xa lạ. Đêm hôm đó mặc dù đã đuợc sưởi ấm, xoa dầu gió cẫn thận, Phượng vẫn lên cơn sốt mê man, cho nên dù trời chưa sáng Quang lại phải một lần nữa ẵm Phượng lên chiếc xe bò, lọc cọc đưa chị vào bệnh viện Bà Rịa.
Vì suy nhược khá lâu, cộng với đêm dầm mưa lạnh lẽo, thêm vào nỗi dằn vặt mất dạng hai đúa con thân yêu, căn bệnh vật ngã Phượng suốt một tháng dài. Bà Tư chẳng một tiếng phàn nàn mà còn bảo Quang bán một chỉ vàng dể lo thuốc thang thêm cho chị.
Ngày Phượng rời bệnh viện, Quang đèo chị trên chiếc xe đạp còn dính đầy đất đỏ. Anh cũng cảm thấy vui vì dù trong hoàn cảnh nghèo mà mẹ con anh cũng đã cứu sống được một người. Trong bữa cơm đạm bạc đầu tiên trong ngôi nhà cuả người đã cưú giúp mình, Phượng đã lần lượt kể lại toàn bộ cuộc đời mình, với niềm ân hận đã quá cạn nghĩ, mù quáng tìm cái chết, đem con bỏ giữa đường đời. Lúc ở bệnh viện chị đã kể cho bác sĩ nghe rằng chị đã uống một lần 3 viên chloroquine tại sao lại không chết, bác sĩ cho biết chị đã tưởng lầm tên thuốc thôi, có lẽ đó chỉ là ba viên thuốc bổ dạng vitamine tổng hợp.
Suốt một tuần sau đó, Quang đã bỏ thì giờ đi rừng, đạp xe tìm vào nơi xóm nghèo mà Phượng đã sống, tìm dấu vết hai đứa bé. Ở đó, anh chẳng gặp một sinh vật nào ngoài những ngôi mộ rậm rịt cỏ mọc. Bà Tám già, theo như lời Phượng kể, cũng chẳng thấy đâu. Anh hỏi thăm những bạn bè thường đi làm trong rừng với anh, nhưng chẳng một ai nhìn thấy hoặc nghe nói về hai đứa trẻ.
Bà Tư và Quang đều nói cho Phượng yên lòng:
– Có lẽ có người nào ở xa bất ngờ qua đó gặp hai đứa nhỏ, nên dắt đi xa rồi, chắccũng không đến nỗi nào đâu.
Mẹ con bà Tư bàn tính với nhau rồi quyết định bảo Phượng tiếp tục ở lại đó, Phượng ôm bà Tư khóc một hồi lâu rồi lau nước mắt không nói gì, vì thực tâm chị cũng chưa biết tính toán cho cuộc sống ngày mai của chị như thế nào.
Không khí trong căn nhà này từ nay có vẽ ấm cúng hơn, vì Phượng vốn là người đàn bà dịu dàng, dễ thương và chăm chỉ trong mọI công việc. Với Quang, trong câu chuyện hàng ngày anh thấy Phượng là người khéo tay, ngăn nắp và có trình độ học thức khá, nên anh tỏ ra có nhiều cảm tình và nễ trọng. Nhờ khéo tay buôn bán, Phượng gom mua rau quả trong các nhà vườn, mỗi sáng đạp xe ra chợ Suối nghệ bán lại cho các bà nội trợ đi chợ với giá tương đối rẻ hơn các sạp trong chợ, nên dần dà chị có nhiều khách mua quen, cuộc sống trở nên dễ chịu hơn, bữa ăn nào cũng có cá, có thịt.
Nhiều người biết được chuyện cuả Phượng cũng tìm cách thăm dò dùm chị về số phận của hai đứa con, nhưng vẫn chẳng ai biết được chúng trôi nổi về đâu, chỉ biết chắc một điều là chúng chưa phải đã chết trong đường rừng vào buổi chiều mưa giông đó. Nỗi buồn và thương nhớ con cũng dần nguôi ngoai đi theo thời gian. Với bà Tư thì dần dà tình cảm cuả bà đối vơí Phượng càng tăng lên, bà và Phượng săn sóc lo lắng cho nhau còn hơn ruột thịt. Đôi lúc bà nghĩ, giá nó là con dâu của mình thì hạnh phúc biết chừng nào, rồi bà lại thầm mong cho Quang thương yêu Phượng như chính bà đã yêu thương chị. Bà đã cố tạo cho hai người có nhiều dịp gần gũi nhau, bằng cách tìm cớ vắng mặt khi hai ngừơi cùng hiện diện trong nhà.
Gần hai năm trôi qua, khi cuộc tình giữa hai người vừa bắt đầu bén rể, thì Quang nhận được tin báo có chuyến vượt biên, chỉ dành riêng cho một mình anh. Anh không còn kịp tính toán gì nữa, sự có mặt của Phượng trong gia đình anh làm Quang có thể yên tâm, anh nghĩ nếu chuyến đi có bề gì, thì có Phượng đỡ đần cho mẹ anh trong lúc đau ốm, tuổi già. Đêm chia tay, anh cầm tay Phượng rồi cầm bàn tay mẹ đặt vào nhau, nói nhỏ : Anh xin gởi mẹ lại cho em. Hai ngườI đàn bà đều khóc trong bóng tối.
Chuyến vượt biên gặp may mắn, thuận buồm xuôi gió nên chỉ ba ngày sau là đến Mã Lai. Quang gởi nhắn tin về nhà cho mẹ và Phượng biết. Phượng nghĩ thầm : Giá như mình đã được cùng đi với Quang trong chuyến đi này, rồi mỉm cưòi một mình.
Một hôm, có người đàn bà lạ mặt tới tìm bà Tư, sau khi ngồi nói chuyện vu vơ một lát, bà ta rút từ trong túi ra một tấm hình đưa cho bà Tư xem, bà ngạc nhiên kêu lên :
– Ủa, thằng Quang, sao chị có tấm hình này?
Lúc ấy người đàn bà mới hỏi nhỏ :
– Cậu này là gì của bà?
– Thì nó là con tôi chớ gì, sao chị có tấm hình thằng con tôi vậy?
Người đàn bà nhìn quanh, thấy không có người nào khác, liền mở xách tay đưa cho Bà Tư một gói giấy nhỏ, rồi thì thầm:
– Ông chủ ghe trả công cho con trai bà đãy. Hai cây đó.
Buổi tối, sau khi đóng cửa gài then cẫn thận, bà Tư kéo tay Phượng vào căn buồng nhỏ, mở gói giấy mà người đàn bà lạ mặt đưa cho hồi sáng, hai người cùng sửng sốt nhìn thấy giữa mớ bông gòn là một chuổi khâu vàng sáng rỡ. Phượng run run cầm lên đếm, đúng 10 chiếc khâu và một miếng vàng lá. Đêm đó bà Tư giữ Phượng ngủ chung một giường với bà, một già một trẻ cứ bồi hồi thao thức cho đến gần sáng mới ngủ được.
Những ngày tháng trên đảo trôi đi thật chậm. Quang sống nhàn rỗi được mấy tuần rồi thấy chán, những người sống chung cùng giãy lán phần lớn đã đến đảo khá lâu, có người đã hơn hai năm mà chưa được gặp phái đoàn. Những người bằng lòng đi Canada, đi Úc hoặc các nứơc Bắc Âu thì được đi sớm hơn, chỉ có những cựu quân nhân, những người đã cải tạo có giấy tờ đầy đủ mới đuợc ưu tiên nhận vào nước Mỹ. Nhũng câu chuyện kể, những lời đồn đãi, những mưu mẹo, mánh mung cũng làm cho Quang cảm thấy chán ngán, nhức đầu. Anh mua một tập vở, cây bút, bắt đầu ghi nhật ký, song chỉ được mấy hôm rồi cũng bỏ ngang, vì ngày lại giống ngày, nhận phần ăn, tạp dịch, xách nước, tắm rửa, giặt quần áo và ngủ, chẳng có sách báo gì để đọc ngoài một số sách truyện cũ chuyền tay nhàu nát.
Một buổi chiều đi dạo qua phía bải xa, Quang nhìn thấy một người đàn bà ngồi lẻ loi trên một mô đá, có lẽ bà ta đang buồn hay đang khóc, đầu gục xuống trên hai cánh tay, gần đó có hai đứa trẻ đang vọc cát. Khi anh đi ngang qua, tình cờ người đàn bà ngẩng đầu lên, Quang thấy khuôn mặt hình như quen. Người đàn bà bỗng đứng bật dậy và kêu lên :
– Quang phải không?
– Quang đây, phải Mai Hương không?
– Đúng, Hương đây, anh qua đây lâu mau rồi?
– Tôi mới qua được gần ba tháng, thế Bình đâu?
– Bình chết trên biển rồi.
Quang lặng người đi một giây, rùng mình và thở dài. Bình và anh cùng tốt nghiệp một khoá ở trường Hải quân Nha Trang năm 70. Bình nhận đơn vị ở Vùng I, cho đến năm 75 vừa được đổi về Vũng tàu thì mất nước. Năm 73, Bình lấy vợ người Long Thành, đám cưới Hương và Bình Quang có dự. Hai đứa bé nghe mấy câu đối thoại ngẩng đầu lên nhìn Quang một lát, rồi lại cúi xuống, tiếp tục cuộc chơi. Hương chùi nước mắt, quay lại ngồi xuống trên phiến đá cũ, Quang cũng đến ngồi gần đó, Hương kể :
– Tháng trước, gia đình em được chủ ghe báo sẽ đi vào ngày mùng bảy, nhưng khuya ngày mùng sáu ông ta đến biểu anh Bình đi trứơc, thay cho ông tài công bị đau bất ngờ, anh Bình ngần ngừ không muốn đi vì anh muốn cùng đi với vợ con một lần, nhưng lão chủ ghe năn nỉ, nói : thì vợ con anh đi sau có một ngày chớ có lâu lắc gì đâu mà sợ lạc.
Đêm hôm sau ba mẹ con em ra đi bình yên, qua tới đây thì nghe tin chuyến ghe trưóc bị hải tặc tấn công, bắt hết đàn bà con gái qua tàu chúng, rồi làm nổ chìm ghe, chỉ còn ba người sống sót được một tầu lớn cứu, đưa vào đây.. Em có gặp được một trong số ba người ấy ở bệnh xá, họ cho biết là họ đã nhảy xuống biển trúơc khi bọn hải tặc tràn qua nên mới thoát chết..
Chữ số mệnh chợt đến trong đầu Quang, thì đúng là số mệnh cộng vói sự hên xui may rủi luôn cận kề với những người liều lỉnh trên đường vượt biển. Có ngồi trên chiếc ghe nhỏ bé mong manh giữa biển trời mênh mông mới cảm nhận hết ý nghĩa phù du của cuộc đời. Anh nghĩ mình đã may mắn, còn Bình và có thể hàng chục ngàn người khác kém may mắn hơn, đã chìm vào lòng biển sâu.
– Thế, Hương hay Bình mang theo giấy tờ?
– Anh ấy giữ tất cả, có ai ngờ vậy đâu!
– Vậy là gay go rồi đó. Mà Hương đã khai hồ sơ chưa?
– Em khai chồng là Trung úy hải quân, nhưng không khai chết, em còn ráng chờ tin tức anh ấy.
Đêm về nằm nhớ lại câu chuyện hồi chiều với Hương, Quang cảm thấy đau trong lòng. Bạn anh cũng như anh đã bỏ quê hương ra đi tìm sự sống trong cái chết, mang theo cả vợ con là muốn cho các đứa con lớn khôn trên xứ người, vớI bầu không khí dự do, không còn bị kỳ thị, chèn ép bất công với thành kiến con lính ngụy. Bây giờ Bình đã chết, mang theo cả giấy tờ của gia đình, bỏ lại vợ con bơ vơ trên hòn đảo xa lạ này. Dù Hương chưa kịp nói với anh về những khó khăn ấy, nhưng vốn là người từng trãi qua những nghịch cảnh, Quang ý thức ngay những trở ngại trước mặt cuả mẹ con Hương.
Một tuần lễ sau, Quang đã tìm được đùơng dây móc nối với tên lính Mã lai trong Ban thư ký thuộc văn phòng Cao Uỷ. Với một chỉ vàng, anh đã lấy lại được hồ sơ cá nhân của anh, và làm lại hồ sơ mới với phần gia đình ghi có vợ và hai con. Đạt được kết quả, anh liền tìm Hương và báo cho chị biết. Hương mừng lắm. Quang gặp quản lý trại và xin dọn về ở chung với vợ con. Những người quen đến chúc mừng anh, và Hương cũng tổ chức một bữa ăn đông người. Hương dạy hai đứa bé gọi Quang bằng ba., Tuổi trẻ dễ quên,cũng dễ nhớ nên chi một vài bữa là quen miệng ba ba, mẹ mẹ, ngọt ngào.
Tuy ở chung, bề ngoài nhìn vào ai cũng tưởng Quang với Huơng như một đôi vợ chồng hạnh phúc, nhưng thực sự mỗi nguời mang trong tim mình một đời sống riêng. Quang luôn nghĩ và nhớ về mẹ, một chút về Phượng. Mối tình chưa đủ sâu để Quang phải thao thức nhiều, nhưng anh thấy thương Phượng, lòng yêu thương muốn bao bọc chở che cho nàng, vì hoàn cảnh quá khắt khe đối với một người đàn bà dịu dàng hiền thục,.Anh nghĩ có lẽ rồi anh sẽ cưới nàng làm vợ cho mẹ vui lòng.
Về phần Hương thì nỗi đau buồn vì mất chồng đột ngột quá, chị mang một nỗi cô đơn lớn quá, hai đứa con không phải là ruột thịt của vợ chồng chị, mà của mẹ chị nuôi đâu mấy năm, gởi chị đem theo vượt biên. Trước khi chị đi, mẹ chị đi coi bói và thầy bói bảo rằng muốn đi lọt được chị phải dẫn hai đứa con đi theo, vì chúng là thần hộ mạng của chị. Mẹ chị bảo : nó chưa có con, ông thầy nhẩm tính một hồi rồi nói : phải tìm cho được hai đứa nhỏ ghép đi theo mới an toàn. Thế rồi hai đứa cháu nuôi của mẹ Hương, cu Rơì, bé Rớt trở thành con của chị, và đúng là mẹ con chị ra đi bình yên.
Nghĩ đến con đường phía trước, Hương thấy chẳng có chút ánh sáng nào, nhưng quay lại thì cũng chẳng được rồi. May ra đến được Mỹ, vài năm nữa chị sẽ baỏ lãnh cho mẹ sang., Hiện tại chị đang phải bấu víu vào người bạn của chồng mình ngày xưa, nếu không gặp Quang ở đây, mẹ con chị cũng chẳng hiểu rồi sẽ ra sao? Và chị tự an ủi mình, có lẽ tất cả mọi người không ai thoát khỏi số mạng có sẵn của mình.
Qua Mỹ được hơn một năm, Hương chết vì tai nạn xe hơi. Quang đem hai đứa bé về ở chung với mình, chúng vẫn gọi anh bằng Ba, và anh cũng xem chúng như con mình. Anh nghĩ đến nỗi bất hạnh của vợ chồng bạn nên lại càng thương hai đúa bé hơn, chúng cũng tỏ ra là những đứa bé ngoan hiền, có giáo dục. Lúc ở đảo mới sang, cả gia đình ở chung một apt hai phòng, cu Rơi ngủ với anh, còn bé Rớt ngủ chung phòng với mẹ. Được vài tháng, Quang xin được một việc làm khá xa nhà ở, nên anh bàn với Hương anh thuê phòng gần nơi làm việc, chủ nhật nào anh cũng về thăm mẹ con Hương và dắt mẹ con chị đi nhà hàng ăn uống.
Hương chết, Quang lo tang ma cho chị, gói tro cốt anh xin gửi vào một ngôi chùa trong vùng, chờ có dịp mang về cho mẹ Hương. Anh gửi điện báo tin, chắc mẹ Hương khóc nhiều.
Công việc của Quang thay đổi luôn. Anh chưa có một một việc nào thích hợp với giờ giấc để anh có thì giờ học thêm, vì anh cũng muốn có một cái bằng chuyên môn để có đồng lương khá hơn, mới mong bảo lãnh Phượng sang có nơi ăn chốn ở ổn định. Mẹ anh thì nhất định không chịu đi, bà cũng vừa tìm được một đứa cháu ngoại lưu lạc mấy chục năm ở ngoài Trung, chịu về ở với bà để hưởng căn nhà, mảnh vườn nhỏ sau khi bà mất. Mẹ anh thì lúc nào cũng lo liệu kỹ lưỡng, chu đáo. Bà nhờ đứa cháu viết thư hối thúc Quang làm hồ sơ cho Phượng, bà cứ sợ ở bên này anh tìm được người con gái khác rồi bỏ Phượng lại bơ vơ tội nghiệp.
Anh gửi tiền kèm theo giây công hàm độc thân về, để Phượng làm hôn thú giấy tờ cho hợp lệ, rồi nhờ một dịch vụ làm hồ sơ bảo lãnh. Thực tâm anh nửa muốn Phượng qua sớm để chị có thể sinh cho anh một đứa con, cho mẹ vui lòng., một nửa anh sợ sự va chạm giữa hai đúa con của Hương anh đang nuôi, với bà mẹ mới của chúng làm mất đi không khí êm ả trong gia đình. Nhưng rồi anh lại nghĩ, dù sao tính Phượng vốn hiền hậu,dễ thương, nên chắc cuộc sống có thể hoà hợp được.
Rồi ngày đáo hạn hồ sơ cũng đến, Phượng đậu phỏng vấn, đăng ký chuyến bay, sau đó chị cùng bà Tư đi thăm một vòng bà con xa gần, ai nấy dều vui mừng chúc tụng chị được may mắn. Riêng Phượng trong lòng không nguôi nỗi nhớ đến Tâm, nguời chồng với những năm tháng khốn khó đói nghèo, và chị càng ray rứt nghĩ đến hai đúa con không biết đang ở phương trời nào, chắc bây giờ chúng cũng đã lớn. Ba bốn năm rồi còn gì..
Ngày đón Phượng được Quang chuẩn bị sắp xếp đầy đủ. Anh lấy vacation nghỉ một tuần, hai đứa con anh cũng xin nghỉ học một bữa. Anh gọi phone cho nhà hàng Cữu Long delivery một bữa ăn bốn người đến nhà anh lúc 6 giờ chiều. Xong rồi cha con với quần áo tươm tất lên xe ra phi trường.
Chuyến bay được báo sẽ đến San Francisco lúc 3 giờ 30, nhưng ba cha con đã đến đó trước gần một tiếng.
Lúc ngồi ở phòng đợi, Bé Rớt (nay đổi tên là Linh, cu Rơi là Minh) hỏi :
– Gặp bà ấy con phải chào như thế nào đây ba?
– Con và Minh phải vòng tay lại nói thưa mẹ, con cũng có thể nói; Chào mẹ mạnh giỏi.
Vốn ngoan ngoản dễ dạy, nên lúc nào hai đúa con cũng tỏ ra lễ phép. Cu Minh đứng lên tập dượt, nó vòng tay hướng về phía trước, rồi cúi đầu nói : Con xin chào mẹ mạnh giỏi. Quang ôm vai nó khen : good.
Thế nhưng, khi Phượng theo đoàn hành khách bước đến trước mặt mấy cha con Quang, thì chỉ nghe tiếng Quang gọi nhỏ : “Phượng,”
Trong lúc đó hai đứa bé há hốc miệng ra, nhìn sững vào Phượng một lúc khá lâu. Thốt nhiên hai đứa bé cùng kêu lên “ Mẹ, me..” và chồm tới ôm lấy chân chị.
Phượng cũng sững sốt buông rơi chiếc túi xách tay, rồi quỳ xuống ôm lấy hai đứa bé, gịong rền rĩ : “Con, Con của mẹ, bé Phúc bé Mai của mẹ đây rồi, con ơi, con ơi.. ”
Đám đông hành khách cùng quay lại nhìn.
Quang cũng ngạc nhiên đứng ngây ra.
Cẩm An Sơn
Nguồn: Tác giả gửi


















