Nguyễn Minh Thanh
Hầu hết người Việt đều biết cụ Nguyễn Du (1765 – 1820) qua tập Truyện Kiều. Nhưng ngoài Truyện Kiều, Cụ còn nhiều tác phẩm khác:Thanh Hiên thi Tập, Nam Trung Tạp Ngâm, Bắc Hành Thi Tập… Trong số những bài thơ của Cụ có bài ” Độc Tiểu Thanh Ký ” làm cho hậu học có nhiều suy nghĩ và tồn nghi. Dưới đây là: Bài thơ “Độc Tiểu Thanh Ký”, tóm tắt ý nghĩa của ” Độc Tiểu Thanh Ký” và phần góp ý của người biên soạn:
I. Bài thơ “Độc Tiểu Thanh Ký”
讀 小 青 記
西 湖 花 苑 盡 成 墟,
獨 吊 窗 前 一 紙 書.
脂 粉 有 神 憐 死 後,
文 章 無 命 累 焚 餘.
古 今 恨 事 天 難 問,
風 韻 奇 冤 我 自 居.
不 知 三 百 餘 年 後,
天 下 何 人 泣 素 如.
Độc Tiểu Thanh Ký
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
– Dịch nghĩa:
Độc Tiểu Thanh Ký
Vườn hoa bên Tây hồ đã thành bãi hoang rồi,
Chỉ viếng nàng qua một tập sách đọc trước cửa sổ.
Son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết,
Văn chương không có số mệnh mà cũng bị đốt dở.
Những mối hận cổ kim khó mà hỏi trời được,
Ta tự coi như người cùng một hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã.
Không biết hơn ba trăm năm sau,
Thiên hạ ai người khóc Tố Như?
– Dịch thơ:
Độc Tiểu Thanh Ký
Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
Vũ Tam Tập
Độc Tiểu Thanh Ký
Hoa kiểng hồ Tây hoá bãi hoang
Bên song bi cảm đọc thư tàn
Hữu thần son phấn chôn còn hận
Vô mệnh văn chương đốt chẳng tan
Kim cổ oán hờn trời khó hỏi
Phong lưu oan khuất tớ ngùi mang
Ba trăm năm nữa làm sao biết
Ai khóc thương nàng phận trái ngang ?!
Nguyễn Minh Thanh cảm dịch
II. Tóm tắt ý nghĩa của “Độc Tiểu Thanh Ký”:
” Độc Tiểu Thanh Ký “có nghĩa là “đọc tập Tiểu Thanh ký” của chính nàng Phùng Tiểu Thanh viết. Đó là người con gái rất đẹp, có thật , sống cách cụ Nguyễn Du khoảng 300 năm trước , đời Minh Thành Tổ (Trung Hoa). Nàng con nhà quan tài sắc vẹn toàn. Nhưng do sự tranh chấp ngôi báu của Minh triều họ Chu. Phía cha nàng ủng hộ bị thất bại, ông bị giết. Gia cảnh sa sút, nàng phải làm lẽ nên bị vợ cả ghen, đày ra sống ở Cô Sơn cạnh Tây Hồ. Buồn rầu, nàng sinh bệnh chết và để lại tập thơ ký sự về chính đời mình. Bà vợ cả vẫn chưa hết máu Hoạn Thư, tìm đến và đốt tập thơ ký sự. Nhưng còn lại một số bài, nên người đời gọi là “Phần Dư tập”. Nhân dịp đi sứ Trung Quốc cụ Nguyễn Du đã đọc được “Phần Dư tập*”. (Có chỗ cho rằng Nguyễn Du đọc “Phần Dư tập” trước khi đi Sứ). Qua đó, cuộc đời ngang trái của Tiểu Thanh đã để lại niềm bi cảm sâu xa cho Nguyễn Du. Và Cụ đã sáng tác bài thơ “Độc Tiểu Thanh ký” rất bi thương ai oán..!!
III. Phần góp ý của người biên soạn:
1 – Về Chữ “Tố Như”: theo tiểu sử, gia phả, cụ Nguyễn Du có tên tự là Tố Như. Và cuối bài “Độc Tiểu Thanh Ký” có câu “Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” (Thiên hạ ai là người khóc Tố Như?). Do đó, nguời đời sau cho rằng “Tố Như” đích thị là để chỉ chính tác giả Nguyễn Du. Nhưng,có người cho rằng chữ “Tố Như” không phải dùng chỉ Nguyễn Du, mà để chỉ chính nàng Tiểu Thanh. Vì “Tố Như”còn có nghĩa là “người phụ nữ đẹp”. Theo HÁN VIỆT TỰ ĐIỂN của tác giả Đào Duy Anh thì: Tố: lụa trắng, sắc trắng…, Như: cùng – dống – ví như… Ta gom hai chữ “tố như”: giống lụa trắng, hàm ý chỉ người phụ nữ đẹp mà cụ Nguyễn Du đã dùng chăng? Khổ nỗi, lối viết của Chữ Nho không viết “hoa” danh từ riêng, cho nên gây khó khăn cho đôc giả, cho kẻ hậu học. Như trong bài Phong Kiều Dạ bạc của Trương Kế, có người cũng cho rằng “ô đề” là tên núi “Ô Đề”, chứ không phải nghĩa “qụa kêu” trong câu “nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên”. Trở lại chữ “Tố Như” trong “Độc Tiểu Thanh Ký”, nếu hiểu theo nghĩa “danh từ riêng” như từ trước, và ông Vũ Tam Tập đã dịch thơ, thì đúng rồi. Song, khác với trước, ta có thể hiểu và dịch “tố như” theo nghĩa “danh từ chung”, hàm ý chỉ “người phụ nữ đẹp”, tức là nàng Tiểu Thanh, thấy cũng thuận nghĩa, không có chi gượng gạo (như Nguyễn Minh Thanh đã dịch ở trên)
Thứ nữa, xét về sự ngiệp cụ Nguyễn Du, thì đường hoạn lộ rất thênh thang, được trọng dụng và hậu đãi, từ Tri Huyện. Tri Phủ…..thăng hàm Cần Chánh điện học sĩ và giũ chức Chánh Sứ đi Trung quốc. Thế, đâu có chuyện chi để ” Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”. Trong bài Trấn Nam Quan (khi đi sứ Trung Quốc) của ông có câu:
“Điạ thiên mỗi vị truyền văn ngộ,
Thiên cận tài tri giáng trạch thâm ”
Tạm dịch:
“Xa xăm nào thấu nguồn cơn
Cận kề mới thấm thâm ơn cửu trùng”
Cho ta thấy rằng Nguyễn Du rất được trọng dụng. Đáp lại, Cụ cũng đã tỏ rõ ơn tri ngộ đối với vua Gia Long. Có người cũng cho rằng Nguyễn Du hoài Lê, nên áo não với tâm trạng:” hàng thần lơ láo”,vì đã từng làm chức Võ quan nhỏ đời Lê Trung Hưng. Nhưng cũng không có gì rõ nét như Bà Huyện Thanh Quan ” Nhớ nước dau lòng con quốc quốc”. Theo gia phả, thì năm 1802, khi vua Gia Long ra Nghệ An, Nguyễn Du đón xe, xin yết kiến vua và đưọc cho làm thủ hạ đi theo ra Bắc. Như vậy, làm gì có chuyện”hàng thần lơ láo”. Duy, Nguyễn Du chỉ có 8 năm lúc thiếu thời từ 1775 – 1783 gặp cảnh loạn Kiêu Binh và Tây Sơn ra Bắc Hà đánh giặc Mãn Thanh, gia đình bị ly tán cuộc sống khó khăn, nhưng Ông vẫn còn đi học được và đỗ Tú Tài (1783)
Tóm lại, chữ “tố như” nhằm để chỉ “người phụ nữ đẹp” là có tính thuyết phục. Vì cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Du so với người cùng thời khá hiển hách, đâu có chi khổ lụy, xót xa để đến nỗi hậu sinh phải “khóc” Vã lại, nếu đem so sánh thân thế sự nghiẹp Nguyễn Du với thân phận của nàng Tiểu Thanh thì hoàn toàn khác nhau. Cụ không có những oan khuất như Tiểu Thanh để đời sau phải “khóc”. Trong khi đó, Cụ đã “khóc” nàng Tiểu Thanh vì những ngang trái và hồng nhan bạc mệnh của nàng! Thứ nữa, thiển nghĩ không có lý do nào để Nguyễn Du tự so sánh mình là một Nam Nhi khí phách (từng có ý định mộ quân chống nhà Tây Sơn, phục hưng nhà Lê Trung Hưng) với người đẹp xấu số; việc này có vẻ trái khoáy!? Để rồi tự hỏi 300 năm sau có ai “khấp” về mình (có gì oan khuất đâu mà “khấp”); như mình đã “khấp” nàng Tiểu Thanh chăng?! Ngoài ra, nếu ta hiểu “tố như” để ẩn dụ cho “người phụ nữ đẹp”,thì tình cảm của Cụ đối với Tiểu Thanh qua bài thơ “Độc Tiểu Thanh Ký” sẽ sâu sắc hơn ý vị hơn và thi vị hơn. Là vì, Nguyễn Du đang ai oán hiện tại, mà còn nghĩ về mai hậu lâu dài: 300 năm sau, không biết còn ai trắc ẩn về nàng nữa hay không?!
Để kết thúc, trong bài “Độc Tiểu Thanh Ký” nguyên bản của Nguyễn Du, nếu ta hiểu chữ “tố như” là danh từ chung; cũng như bài thơ dịch Việt ngữ của Vũ Tam Tập, nếu ta không viết “hoa”chữ “tố như” thì ý nghĩa câu thơ sẽ đổi khác, và hợp tình hợp lý hơn. Trên đây chỉ là thiển ý, nhằm gợi ý để qúi thức gỉa suy nghĩ. Trân trọng.
Ngoài ra, nếu xét về “niêm luật” thì 2 câu cuối của bài “Độc Tiểu Thanh Ký” lại không đúng “niêm luật”. Cho nên có người cho rằng 2 câu ấy là “chấp vá”. Và Nguyễn Du chỉ tự thán riêng 2 câu ấy trước phút lâm chung !! Cũng được đi. Thế thì, 2 câu “chính gốc” ở đâu? Chẳng lẽ Nguyễn Du làm thơ “què” chỉ có 6 câu !! Vã lại, có bài thơ sai “niêm luật” lại rất ư nổi tiếng như bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu hầu hết chúng ta đều biết. Vậy thì đây có thể là sự cố ý của Tiên Sinh chăng ?! Trân trọng.
2 – Lời bàn thêm: Cụ Nguyễn Du quan tâm tiếc thương người phụ nữ tài hoa mà bạc phận, Phùng Tiểu Thanh, ngoại nhân, thì cũng phải thôi. Vì chính Cụ đã nói ” Phong vị kỳ oan ngã tự cư”.Tuy nhiên, nếu như xét về lịch sữ Việt Nam không thiếu chi những hồng nhan bạc phận: Hai Bà Trưng, Bà Triệu.. Công chúa An Tư, Công chúa Huyền Trân, Công chúa Ngọc Hân… sao cụ Nguyễn Du không có một chút mải mai xót xa nào ?!! Nếu như Cụ có những xót xa (mà người soạn chưa biết chăng ?) một trong những ” danh giai nhân ” vừa kể trên thì rất ư là quí hoá. Và có như thế thì “Phong vị kỳ oan ngã tự cư” của Nguyễn Du sẽ tròn trĩnh biết bao..!!
Nguyễn Minh Thanh biên soạn
Nguồn: Tác giả gửi
* Phần Dư Tập: tập ký bị đốt,còn dư lại.
Tham khảo:
– Trang web Thư Hoạ của Phan Quốc Tuấn
– Thành Ngữ Điển Tích của Gs Trịnh Vân Thanh
– Wikipedia: Nguyễn Du
– Tự Điển Hán Việt của Đào Duy Anh


















