Đỗ Xuân Tê
Khi ông cậu đưa tôi về sống ở Hà Nội thì cũng là lúc thanh niên đáng tuổi anh tôi lên đường đi Vệ quốc quân theo tiếng gọi của cao trào kháng chiến chống Pháp. Dầu tuổi ấu thơ của tôi chưa cảm nhận hết được cái đẹp của Hà thành, nhưng âm vang của những bài học lịch sử bậc tiểu học vẫn đọng lại trong tôi một Thăng Long xưa với Hồ Gươm, Văn Miếu, với 36 phố phường, với con người và vùng đất mà về sau không còn tìm lại được trên nước Việt mến yêu.
Cuộc kháng chiến đi đến bước ngoặt, nhiều người có cảm tưởng bị lừa đã bỏ về thành. Không khí Hà Nội vào đầu thập niên 50 trở nên ngột ngạt, ô hợp. Năm cửa ô cứ rộng mở đón nhận cư dân tỉnh lẻ đổ về coi đất Hồ Gươm như một nơi nương náu an toàn. Từ đây, cuộc sống người Hà nội biến đổi theo vận nước cho đến khi Hiệp định đình chiến được ký kết. Hà Nội thuộc về phe ông Hồ. Tôi cũng như con em có gia đình theo phe quốc gia đành tìm đường vào nam.
Bẵng đi hai chục năm, vận nước đổi thay, miền nam đổi chủ, tôi lại có dịp quay về Hà Nội. Tới ga Hàng Cỏ vào một buổi chiều nhạt nắng, tàu đậu lại ở một góc vắng của kho hàng hóa. Lấy thêm ít nước cho đoàn tù, nửa giờ sau tàu lăn bánh đi tiếp Yên Bái. Toa tàu bít bùng, qua lỗ thông hơi tôi nhận ra phố Sinh Từ. Phố chiều với tốp người đa phần đi xe đạp dồn cục phía sau chiếc rào cản cạnh đường ray, Hà Nội như trở nên chật chội, mệt mỏi sau giờ lao động. Dù chỉ một thoáng mong manh vì còn phải nhường chỗ cho người khác ngước lên ô thông gió lấy không khí để thở, tôi vẫn cảm nhận con người và cảnh vật của Hà Nội không khác gì những thị trấn tôi đã đi qua, thảy đều mất sức sau cuộc chiến tương tàn suốt mấy thập niên.
Tàu tiếp tục chạy ra ngoại ô, nhìn lại thân phận mình chưa biết về đâu nên hình ảnh Thăng Long xưa tạm xếp lại trong ký ức. Nhìn quanh trong toa chợt thấy một ông bạn hơn tôi cả chục tuổi, ngồi ở một góc tối, anh đang khóc. Hỏi ra mới biết anh mới chính gốc Hà Nội, tàu vừa đi qua nhà bố anh. Anh không cần nhìn bằng mắt, chỉ từ khi tôi réo lên,”A! phố Sinh Từ!” thì cứ tính từ đây khoảng năm phút là qua nhà anh cũng cạnh đường rày. Anh khóc không phải vì nhớ ai nhưng vì thấy Hà Nội nghèo quá. Tôi không có người thân ở lại Hà Nội hồi di cư nên chưa hiểu hết tâm trạng anh.
Ngày tháng lưu đầy chính trên quê hương mình, một ngày như mọi ngày, lao động nhọc nhằn, trời lại sang đông, thiếu ăn, chóng đói, thân tù biệt xứ xem ra ngày về rất đỗi mong manh. Nhưng Ông Trời ngó lại! Một năm sau, đám tù được cho gia đình tiếp tế, trước bằng bưu kiện, sau cho thăm nuôi. Người được thăm đầu tiên là anh bạn cùng toa khi qua Hà Nội. Ai có người nhà thăm gặp lúc này coi như người hạnh phúc nhất hành tinh. Hạnh phúc đây không biểu thị bằng cảm xúc mà được những người tù qui theo sản phẩm thăm nuôi. Chưa kịp thăm hỏi thì bìết anh mang vô trại một balô cũ. Mở ra khám thì toàn đồ cây nhà lá vườn, qúi nhất là đôi dép râu, tiện cho việc lao động trên non. Tuy có phần khiêm tốn về số lượng, nhưng ngoài Bắc cho nhau như thế là quá khả năng rồi. Tôi hỏi anh ông cụ lên thăm hả, anh đáp ông cụ mất rồi, buồn vì đã thống nhất, thằng con đi qua Hà Nội không ghé, lại đi ngược Yên Bái, chờ không được cụ đi trước. Mẹ anh già đi không nổi, cô em có chồng Thượng uý đại diện gia đình lên thăm. Anh châm một điếu thuốc Đồ Sơn, mồi lửa cho ông cụ, kẹp vào cái đóm cắm trên nải chuối tiêu, rồi ngồi khóc rấm rức ở một góc tối như đứa trẻ nhớ sữa mẹ. Mấy thứ ăn ngay được anh bảo tụi tôi cứ dùng còn anh thì chẳng thiết. Sau này nhớ lại tôi thấy xấu hổ vì đám tôi được anh bật đèn xanh nên thanh toán sạch số quà thăm nuôi, cả bọn xử sự như lũ ma đói. Cũng may người chết chẳng ăn được nên anh còn nải chuối.
Một năm sau đến lượt tôi được vợ thăm nuôi. Mấy bà “vợ ngụy” nhờ có nguồn tiếp tế từ người thân nước ngoài nên quà cáp có phần chất lượng, tuy vậy nhiều người cũng phải vay mượn bấm bụng thăm chồng xa xôi cách trở. Ôi, sao có cái thời nó đầy đọa làm khổ cho cả người tù trong lẫn kẻ tù ngoài! Vì trại giam nằm rải rác ở các vùng rừng núi phía bắc, nên Ga Hàng Cỏ trở thành điểm dừng chân trước khi chuyển tàu đi tiếp. Chế độ nào dù ưu việt cách mấy, bọn ăn cắp móc túi cũng vẫn tìm cách làm ăn, mà trong cái xã hội của chủ nghĩa Lê-nin vô địch này, bọn lưu manh hoạt động càng tinh vi hơn. Đối tượng của chúng bây giờ là các bà từ miền Nam ra. Một trong những nạn nhân rơi đúng vào bà xã tôi. Chân ướt chân ráo cùng đứa con gái 12 tuổi vừa xuống ga, chưa kịp đón xích lô về nơi tạm trú thì mấy thùng đồ tiếp tế vừa để xuống sân ga đã không cánh mà bay. Vợ con tôi khóc, chẳng biết kêu ai nơi xứ lạ quê người. Nhưng còn may cho…tôi là ít phút sau, nhờ một chú công an chìm chuyên theo dõi đám trộm cắp sân ga đã kịp thời phát hiện lấy lại số quà giao cho khổ chủ.
Cũng từ khi có thăm nuôi từ miền nam ra, trại tù không còn là một quần thể khép kín, nhiều thông tin được hé lộ, nhiều mảnh đời, cảnh đời được trải ra, nhiều hoàn cảnh ngang trái, đổ vỡ, nhiều mất mát, tuỉ nhục được thuật lại, rồi tình người, lòng người ai tốt ai xấu được phô bày rành rọt. Nói chung chuyện buồn thì nhiều, có thoáng vui khi gia đình nào có con cái vuợt biên đi thoát, nhưng cũng kể là buồn vì lại vướng cảnh chia ly, ngàn trùng xa cách. Hoàn cảnh tôi, lần đó là lần thăm nuôi duy nhất, tất nhiên vợ tôi còn phải lo cho con cái vượt biển. Rồi vượt biển nhiều lần không thoát, vốn liếng cạn dần, cuối cùng phải nhờ người đi thăm nuôi dùm. Chuyện gì cũng có cái duyên, cái nợ, tình cờ mà cứ như sắp đặt. Lần đó trên chuyến tàu xuôi nam sau khi thăm tôi, vợ tôi ngồi cạnh một thiếu phụ người Hà Nội. Bà vào nam chẳng phải thăm ai, nhưng xuôi tàu theo kiểu buôn chui bán chạy. Chị em tỏ ra đồng cảm, trước lạ sau thân. Đến ga Saigòn hẹn nhau gặp lại, rồi giòng đời đưa đẩy, người thiếu phụ này trở thành ơn nghĩa của gia đình tôi.
Qua tâm sự, được biết bà gốc Hà đông, xứ một thời áo lụa. Sau lấy chồng sanh con đẻ cái về cư trú tại Hà Nội từ sau đình chiến. Lúc gặp vợ tôi tuổi đời khoảng dưới bốn mươi, nghe nói cũng một thời xuân sắc. Trong thời kỳ chiến tranh từng đi thanh niên xung phong, tình nguyện tải thương tải đạn cho một đơn vị gần biên giới Lào. Đi thanh niên về dạy mẫu giáo, lấy chồng làm giảng viên trường Thể dục Thể thao, hai người có ba mặt con hiện là cư dân quận Hoàn Kiếm. Khoảng đầu thập niên 80, gia cảnh lương không đủ ăn, bà quay ra buôn chuyến theo kiểu cò con tuyến đường Bắc-Nam. Biết hoàn cảnh gia đình tôi, tiện đường buôn bán, bà ngỏ ý với vợ tôi nếu cần ủy quyền cho bà đi tiếp tế dùm. Hà Nội cách trại tôi đón xe mất khỏang hai giờ. Nhưng từ bến xe vào trại gần hai chục cây số đường đất đá vôi thì phải nói là vất vả. Địa hình vùng này bà khá rành, nên trại tôi ở dù có heo hút đối với bà cũng chẳng xa lạ.
oOo
Một buổi trưa giữa giờ lao động, tôi được trực trại báo cho biết có người nhà thăm nuôi. Hỏi quan hệ thế nào, thực tình tôi không biết. Viên cán bộ thăm nuôi gơị ý có người đàn bà ở phố Hàng Khay, tên Loan, nói là em họ của tôi. Tôi nhận bừa, nếu không đúng thì cũng được nghỉ một buổi lao động. Ra gặp bà, không phải một mình bà, mà có cả thằng con trai tuổi vị thành niên. Hai mẹ con đạp xe từ Phủ lý vào, thồ số quà vợ tôi gửi kèm bao gạo hai chục ký mới mua ở bến xe. Hai bên tự giới thiệu, bà cho biết lý do thăm nuôi và tình hình chung của gia đình tôi. Gặp gỡ chừng vài chục phút, bà khuyên tôi “an tâm cải tạo” (nói khá lớn cho viên cán bộ cùng nghe), rồi trao số quà lại cho tôi. Bà còn cẩn thận nói với tôi có lấy hai loong gạo trong bao để nấu xuất cơm trưa cho hai mẹ con ăn. Thăm xong quay ra Phủ lý để kịp đón xe về Hà Nội lúc lên đèn.
Mấy năm về sau, cứ đến hẹn lại lên, tôi được bà Loan thăm nuôi đều đặn. Các lần sau bà đi một mình, vì quen tải đạn nên việc thồ số quà vô trại xem ra không khó khăn gì. Tuy nhiên không bao giờ bà ở lại qua đêm, bằng mọi cách bà về Hà Nội trong ngày, theo tôi đoán chắc vì bà ngại ông chồng. Ngặt một nỗi cũng khó xử cho tôi, là mấy bạn tù cùng ra thăm nuôi, khi vào trại biết bà không phải là vợ hoặc em tôi, nên cứ phao là “người yêu của thằng Tê” từ Hà Nội lên thăm.Thật sự cũng có vài người yêu cũ của mấy ông lớn khi vào nam hồi 54 bị đứt đoạn, nay trong hoàn cảnh này “còn một chút gì để nhớ để vương” nên họ có nhờ con nhờ cháu dẫn đến trại thăm hỏi các vị cho đỡ tủi thân người tình ngã ngựa. Nhưng chuyện của tôi lại khác, nên càng chối đám bạn càng nghi, riết rồi tôi để cho họ khoái chí muốn hiểu sao thì hiểu. Nói cho ngay, chính vì có mấy cái chuyện bàn tán bá láp này mà tụi tôi mới sống được qua ngày và quên đi nỗi u ám của cảnh tù.
Cứ mỗi lần ra thăm, tôi để ý đàn bà do bản năng họ có làm dáng ngầm. Dù đạp xe vất vả, nhưng trước khi gặp tôi bà vẫn rửa mặt, thay đồ, trang điểm vội để lấy lại vẻ tươi mát muộn màng của một phụ nữ sắp hết tuổi hồi xuân. Qua cách giao tiếp dạn dĩ với người khác phái, cùng lối ăn nói ỡm ờ có duyên của gái Hà thành, chỉ vài ba chục phút ngắn ngủi, bà làm tròn cái việc vợ tôi nhờ và hẳn nhiên đem lại cho tôi một thoáng hạnh phúc trước khi chia tay quay vào chốn cũ. Thú thật vì là đàn ông, lâu ngày xa nhà, lại ám ảnh bởi cái lối đùa cợt của mấy bạn tù, nên đôi lúc có nảy sinh vài ý nghĩ thiếu trong sáng, nhưng tôi kịp tự chế vì dù sao bà cũng là người ơn hiếm thấy. Tôi nghĩ phái nữ vốn nhạy cảm họ cũng nhận ra điều này, vì vậy mà bà qúi tôi như vai người anh, luôn gọi tôi bằng ông, mặc dầu tôi xưng với bà bằng chị. Về lâu về dài cán bộ họ cũng biết, lại người cùng tần số, nên cứ mỗi lần bà lên thăm tôi là họ sắp xếp cho gặp ngay để bà còn kịp quay về Hà nội. Nói nào ngay chính sách có dã man, nhất quán, nhưng con người thì dù sao cũng còn người nọ người kia, chẳng phân biệt trong nam ngoài bắc.
Thấm thoát ra Bắc đã trên mười năm, tình hình cũng đến lúc họ phải thả chúng tôi. Khi tôi ra trại thì cả hai gia đình đều mừng và những năm sau đó quan hệ càng trở nên thân tình hơn. Lúc này bà lại ít đi tuyến đường Bắc-Nam vì hàng hóa không còn khan hiếm như xưa. Tuyến đường Liên xô, Đông âu xem ra dễ kiếm ăn hơn. Lại có đứa con được đi diện lao động xuất khẩu, nên lơị dụng diện du lịch sang thăm con rồi tiện đường bán buôn hàng chuyến. Trùng hợp thời kỳ mở cửa, mọi chuyện có phần cơỉ mở, nên việc làm ăn tương đối khá. Phần tôi nhân có chính sách cho tù cải tạo đi Mỹ, tôi cùng mấy ông bạn đồng tù ra Hà Nội lo chạy hộ chiếu. Mấy ông kia gia cảnh có con nước ngoài muốn được xếp theo diện bảo lãnh ưu tiên, còn tôi hồ sơ thuộc diện trọng điểm bị đì ở Phòng xuất cảnh thành phố, nên phải nhờ bà Loan kiếm người môi giới chạy thẳng dịch vụ trung ương. Tụi tôi năm thằng góp tiền ăn đồng chia đủ, nên sự tiêu pha ăn ở cũng khá thoải mái.
oOo
Trở lại Hà Nội lần này, được tự do đi lại, nhưng cảm xúc không giống hồi 76 khi qua phố Sinh Từ, lại mới xem cuốn phim “Hà Nội Trong Mắt Ai’” của đạo diễn Trần văn Thủy thì thấy Hà Nội trần trụi quá, hiện thực quá, chẳng còn tìm được nét nên thơ thanh lịch của chốn Tràng An, cho nên chủ yếu chúng tôi đi ăn, lo giấy tờ, xong việc là xuôi nam. Có điều lúc này quán ăn, nhà hàng đã nở rộ, nét văn hóa ẩm thực của người Hà Nội được đà trỗi dậy làm chuyến đi của chúng tôi không đến nỗi tẻ nhạt. Có chuyện khá tức cười là nhiều người Hà Nội tuy không mặn mà với chế độ, nhưng vẫn còn có lòng kính trọng đối với ông Hồ, nhất là ngày đó chưa có sự tiết lộ vụ án tình của cô Xuân. Người môi giới của chúng tôi là chị Minh, một cựu cán bộ sứ quán, đi đây đi đó nhiều nơi, lại vô Sàigòn như đi chợ, nên rất hiểu và nhiệt tình giúp đỡ chúng tôi. Ấy vậy mà chị cũng bảo, “các anh đã ra đến đây (Hà Nội) cố thu xếp thời gian vào thăm …Lăng Bác!” Biết thiện ý của chị, nhưng lý lịch tụi tôi thằng nào cũng đen như mõm chó nên không muốn dính vào mấy chỗ này, vì lỡ có chuyện gì bị tóm cổ trước là cái chắc. Nhưng quá nể lời, lại muốn được việc, năm thằng bấm bụng thuê ba chiếc xích lô trực chỉ Ba Đình.
Ba ông xích lô đầu đội nón cối, mặc áo bộ đội, qua trao đổi biết ngay một thời là cánh AK, họ cùng chúng tôi chuyện trò rôm rả, nhưng khi bảo xe đậu lại quảng trường thì chính họ cũng không tin có chuyện lạ lùng, mấy ông sĩ quan “ngụy” về thăm Lăng Bác! Vừa định chụp một tấm hình trước lăng, ba thằng đứng hai thằng ngồi cho rõ mặt, thì một ông mặc thường phục tiến lại giơ thẻ tự xưng là công an bảo vệ, bằng giọng nhẹ nhàng, khuyên chúng tôi nên “đứng” (về sau hỏi mấy ông xích lô họ bảo công an sợ mấy anh ngồi rồi đặt mìn chất nổ biết đâu chừng). Năm thằng hú vía, mặt mày mất vui, chụp vội tấm hình về khoe chị Minh làm bằng cớ, sau đó trên đường về nam liệng luôn xuống cống kẻo bạn bè nó thấy đâm rách việc, khó mà đi Mỹ.
Cũng nhân chuyến ra Bắc, sắp xếp một buổi chiều tôi rời “đoàn” xé lẻ đến thăm gia đình bà Loan, tiện giao quà của vợ tôi biếu bà. Tới nhà không gặp vì không hẹn trước, nên không biết bà đang đi Liên xô lo chuyện bán buôn. Cũng may là gặp được ông chồng. Hai người đàn ông gặp nhau tuy lần đầu nhưng cứ ngỡ quen nhau từ lâu. Ông mời tôi ở lại dùng bữa cơm gia đình đạm bạc. Thấy cảnh nhà luộm thuộm, chật chội, tôi lấy cớ bà không có nhà, hỏi thật lòng, “hay anh em mình đi ăn ngoài?” Ông nhận lời không có gì miễn cưỡng. Hai người ăn ở một quán bên Hồ tây do ông chọn. Chuyện trò trong tình đồng cảm, tương kính, một bên mấy năm cho vợ đi thăm một anh đàn ông xa lạ mắc cảnh tù tội, một người biết qúi trọng hàm ơn, luôn giữ mối quan hệ trong sáng với vợ ông. Hai người lại có nhiều kỷ niệm với Hà Nội, hỏi ra thì ông cũng gốc tiểu tư sản, một cầu thủ có hạng của sân Hàng Đẫy, theo kháng chiến rồi về thành sau 54. Trước khi chia tay, biết tôi ra chạy hộ chiếu, nên có hứa vớí ông lần sau ra nhận giấy tờ sẽ mang bà xã cùng đi, ở chơi với ông bà lâu hơn.
Ấy vậy mà bận thu xếp mấy việc ở trong Nam, loay hoay thế nào rồi cũng chẳng ra Bắc được, lại phải ủy quyền cho ông bạn tù lấy dùm hộ chiếu. Trước khi đi, tình chị em bịn rịn, vợ tôi nhắn bà Loan vào chơi. Chẳng hề mếch lòng, bà đáp tàu vô thăm chúng tôi trước ngày xuất cảnh. Bình thường chúng tôi vẫn đối đaĩ nhau bằng cái tình, nay sắp xa xứ, vợ chồng tôi có chút quà cho mấy đứa con thể hiện bằng kim loại qúi, bà nhất định không lấy, chỉ nhận mấy cái aó dài do vợ tôi đặt may và vài thứ của đàn ông tôi gửi biếu ông xã. Bà cũng tình thật dặn chúng tôi sang bên ấy làm ăn ổn định nhớ bảo lãnh cho bà thăm Mỹ một chuyến. Bà còn nói vui,”tôi đi Nga, đi Tiệp nhiều rồi, muốn sang Mỹ coi hàng họ cho mát mắt. Chính hiệu USA mới qúi chứ toàn đồ dởm nhập vào chán chết.”
oOo
Tưởng chuyện có thể trong tầm tay, nhưng mười mấy năm qua dù đã ổn định trên đất Mỹ, vợ chồng tôi vẫn chưa làm thỏa lòng bà. Rốt cuộc, hàng Mỹ thứ thiệt giờ này đã tràn ngập Hà Nội, tàu Mỹ giờ này đã ghé cảng Đà nẵng, người Mỹ ra vào Sài gòn như đi chợ, nhưng câu chuyện người đàn bà phố Hàng Khay dính dấp đến tôi vẫn là món nợ ân tình chưa trang trải nổi.
Đỗ Xuân Tê
Nguồn: Tác giả gửi


















