Lật Tư
Trần Yên Thảo trích dịch

Trống đá khắc thơ (Nguồn: Confucius Institute Online)
Trong lịch sử văn hoá nghệ thuật Trung Hoa, “Trống đá” (Thạch cổ: 石 鼓) là một tác phẩm nghệ thuật tối cổ (thời Tây Chu), một di vật quí hiếm còn được bảo tồn đến nay. Trống đá được phát hiện thời Sơ Đường trên đường Trần Thương, một vùng thảo nguyên cách phía Nam huyện Thiên Hưng (nay là huyện Phượng Tường, Thiểm Tây) khoảng 20 dặm. Tất cả gồm 10 chiếc có hình dạng chiếc trống. Đường kính mặt trống từ 70-80 phân, cao khoảng 1 thước. Mỗi mặt trống đều chạm khắc một bài thơ 4 chữ, 10 bài ghép thành một trường thi tự sự trên 700 chữ.
Văn tự khắc trên trống đá là chữ “Đại triện”, tiền thân của thể “Tiểu triện” đời Tần sau này. Từ đời Đường Thái Tông, các nhà thư pháp lớn như Âu Dương Tuân, Ngu Thế Nam, Chử Toại Lương…đều xem qua văn tự trên trống đá và không ngớt lời ca tụng. Văn tự còn được các thế hệ thư pháp gia sau này vô cùng trọng thị. Đáng tiếc, trống đá từ khi được phát hiện (Sơ Đường), vẫn chưa được bảo hộ. Sự xâm thực của tự nhiên dần hồi bào mòn tàn phá, văn tự có nhiều chỗ bị mòn khuyết, thậm chí có chỗ không còn đọc được.
Thời Thịnh Đường, nhà thơ Vi Ứng Vật sau khi xem văn tự “Đại triện” trên trông đá, đã viết bài “Thạch Cổ ca”, đề cập lai lịch và thân phận của di vật lịch sử văn hoá này:
石 鼓 歌. 韋 應 物.
(摘 錄)
周 宣 大 獵 兮 岐 之 陽,
刻 石 表 功 兮 煒 煌 煌.
石 如 鼓 形 數 止 十,
風 雨 缺 訛 苔 鮮 澀.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
THẠCH CỔ CA. Vi Ứng Vật
(Trích lục)
Chu Tuyên đại liệp hề, Kỳ chi Dương,
Khắc thạch biểu công hể, vĩ hoàng hoàng.
Thạch như cổ hình sổ chỉ thập,
Phong vũ khuyết ngoa đài tiển sáp.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
BÀI THƠ TRỐNG ĐÁ
(Trích đoạn)
Tuyên Vương săn bủa chừ, tại Kỳ Sơn,
Khắc đá lưu truyền chừ, công vẻ vang.
Đá như hình trống, gồm mười chiếc,
Mưa gió bào mòn, rêu phủ biếc.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Chu Tuyên Vương (827-782 TCN) triệu tập chư hầu, cử hành một cuộc săn vây tại phía Nam Kỳ Sơn (nay là Đông Bắc huyện Kỳ Sơn, Thiểm Tây, đất tổ của nhà Chu). Nhân dịp này, thiên tử (Chu Tuyên Vương) lệnh khắc đá, ghi chép khung cảnh qui mô hoành tráng của cuộc săn, ngụ ý biểu dương uy quyền thiên tử. Những thợ đá lành nghề tức khắc được huy động, tạc đá thành hình trống, tất cả gồm 10 chiếc. Sử quan viết một bài thơ tự sự thể bốn chữ (thể Kinh Thi), chia thành mười tiểu khúc chạm khắc lên mặt trống. Dù là chữ “Đại triện” chân thể, đậm nhạt phân minh, nhưng nét bút cũng biểu lộ được tính cách rồng phượng, xứng đáng là một kỳ tích truyền lưu đời đời. Có điều đáng tiếc, mười chiếc trống đã bị phơi giữa đất trời qua hằng ngàn năm. Thiên nhiên không ngừng xâm thực bào mòn, văn tự trên mặt trống có nhiều chỗ mờ khuyết không còn nhận ra.
Trong bài “Thạch Cổ ca”, Vi Ứng Vật cũng có đề cập sự kiện khắc đá của Tần Thuỷ Hoàng tại Chi Phù Sơn, cách phía Bắc thành phố Yên Đài tỉnh Sơn Đông ngày nay khoảng 20 dặm. Tần Thuỷ Hoàng năm thứ 28 và 29 (219-218 TCN) trong khi tuần thú phương Đông, đã hai lần lên đỉnh Chi Phù nhìn bao quát bốn phía. Núi này ba mặt nhìn ra biển, chỉ có phía Nam tiếp giáp đất liền. Hoàng đế lệnh tạc bia trên đỉnh Chi Phù, biểu dương công đức Tân triều. Bia được ghép từ nhiều khối đá lớn. Văn tự do thừa tướng Lý Tư viết bằng “Tiểu triện” (hoá thân của Đại triện). Tương truyền, bia dựng không bao lâu đã bị đổ rơi xuông biển. Hiện nay trên núi Chi Phù chỉ tồn tại một khối đá với 10 chữ “Tiểu triện”. Sự kiện Tần Thuỷ Hoàng tạc bia trên núi Chi Phù diễn ra vào năm Thuỷ Hoàng thứ 28 và 29 (219-218 TCN), nghĩa là sau trống đá của Chu Tuyên Vương 564 năm.
Thời Trung Đường, văn học gia Hàn Dũ (韓 愈) có những ghi chép rõ ràng hơn về lai lích trống đá: Nhà Tây Chu cuối đời Chu Lệ Vương (878-828 TCN) nền thống trị suy thoái, chư hầu lộng quyền, thiên hạ tao loạn. Chu Tuyên Vương (827-782 TCN) nối ngôi thiên tử ra sức chỉnh đốn triều cương, đích thân cầm đại quân khống chế chư hầu tái lập trật tự, trung hưng vương thất nhà Chu. Thiên tử mở đại triều tiếp đón quần thần. Vua chư hầu khi triều kiến thiên tử nếu có mang kiếm, trên kiếm phải đeo những viên ngọc kha (để mỗi cử động đều phát ra âm thanh do sự va chạm những viên ngọc) mới được vào chầu. Cũng nhằm biểu dương uy quyền thiên tử, Tuyên Vương triệu tập chư hầu cử hành một cuộc săn vây đại qui mô tại Kỳ Sơn. Trong vòng một vạn dặm vuông chim thú không thể thoát. Sau cuộc săn, thiên tử lệnh tạc đá thành hình trống để ghi khắc văn tự. Tất cả gồm 10 chiếc trống đá, mỗi mặt trống khắc một bài thơ bốn chữ, mười bài ghép thành một trường thi tự sự trên 700 chữ. Nội dung đề cao uy quyền thiên tử qua bối cảnh hoành tráng của cuộc săn vây. Văn tự khắc trên trống đá là “Đại triện”, nhưng qua ngọn bút tài hoa của đại thần Sử Trứu (史 籀), nét chữ vừa đoan trang vừa bay bướm.
Năm Nguyên Hoà thứ nhất Đường Hiến Tông (CN 806), Hàn Dũ được bổ nhiệm Quôc tử giám bác sĩ. Lúc đó Trịnh Dư Khánh (鄭余慶) đang giữ chức Quốc tử tế tửu (Quốc tử giám là trường học cao nhất, tương đương đại học quốc gia ngày nay. Hiệu trưởng được gọi Quốc tử tế tửu, Quốc tử bác sĩ tương Đương giáo sư). Hàn Dũ đã thỉnh cầu Trịnh Dư Khánh cho di dời trống đá về nhà thái học (tại kinh đô Trường An) để bảo quản và làm đề tài nghiên cứu cho sĩ tử. Nhưng Trịnh Dư Khánh chỉ giữ chức Tế tửu ba tháng rồi được điều làm Lệnh doãn Lạc Dương nên dự tính không thực hiện được. Mười chiếc trống đá lại tiếp tục dầm mưa dãi nắng, bị trâu bò húc, mục đồng đập phá, nông dân đốt rẩy…trên thảo nguyên Phượng Tường.
Dù không kịp di dời trống đá, Trịnh Dư Khánh cũng không quên đây là nghĩa vụ. Chắc cũng do duyên nợ này, năm Nguyên Hoà thứ chín Đường Hiến Tông (CN 814), ông được bổ nhiệm Tiết độ sứ Phượng Tường. Việc đầu tiên khi nhiệm chức, Trịnh Dư Khánh cho vận chuyển toàn bộ trống đá về Khổng miếu Phượng Tường để tạm bảo quản. Đáng tiếc, thời gian bị bỏ phế trên thảo nguyên đã bị thất lạc một chiêc, chỉ đem về Khổng miếu được chín chiếc.
Thời Bắc Tống, năm Hoàng Hựu thứ tư Tống Nhân Tông (CN 1052), người ta phát hiện chiếc trống đá thất lạc trong một gia đình nông dân tại Phượng Tường. Mặt trống đã bị khoét một lỗ lớn làm cối giả gạo. Dù văn tự trên đó hoàn toàn bị mất, chiếc trống vẫn được đưa về Khổng miếu. Văn tự khắc trên trống đá thời Chu Tuyên Vương (khoảng 827 TCN) là một bài thơ tự sư trên 700 chữ. Nhưng theo ghi chép của Âu Dương Tu thì, đến đời Bắc Tống (khoảng CN 1050) chỉ còn đọc được 465 chữ.
Niên hiệu Đại Quan cuối Bắc Tống (khoảng CN 1107-1110), hoàng đế Huy Tông cho di dời trống đá từ Phượng Tương về thủ đô Biện Kinh, lưu giữ tại Bảo Hoà điện nội cung. Năm Tịnh Khang thứ hai (CN 1127) Bắc Tống diệt vong, người Kim chuyển vận trống đá đến Bắc Kinh, đặt tại Quốc tử giám đến cuối đời Thanh. Thời kỳ chiến tranh Trung-Nhật, di vật văn hoá quí hiếm này lại trải thêm một cuộc trôi nổi. Từ Bắc Kinh đến Thượng Hải, Nam Kinh, Bảo Kê, Thành Đô, Trùng Khánh…Sau ngày giải phóng mới được đem trở lại Bắc Kinh. Từ Bắc Tống đến đây, trải hơn 1.000 năm lăn lốc thăng trầm, văn tự trên trống đá chỉ còn vỏn vẹn 321 chữ “Đại triện”.
Thời cận đại có một nghiên cứu phát hiện, “Trống đá” là di vật khắc thạch của nước Tần thời Xuân Thu (Đông Chu), năm Tần Hiến Công thứ mười một (374 TCN), chứ không phải của Chu Tuyên Vương thời Tây Chu. Nhưng phát hiện này chưa đủ tư liệu thuyết phục, nên vẫn còn đặt ở tình trạng tồn nghi.
Trống đá hiện nay được trưng bày tại Minh Khắc quán, thuộc Cố cung Bác vật viện Bắc Kinh, thường xuyên mở cửa tiếp đón khách thập phương. Mười chiếc trống được che phủ bằng những lồng thuỷ tinh lớn. Nếu để ý, sẽ nhận ra chiếc trống bị khoét một lỗ lớn trên mặt. Đó là chiếc bị thất lạc trên thảo nguyên Phượng Tường từ năm Nguyên Hoà thứ chín Đường Hiến Tông (CN 814).
Ngày nay, mỗi lượt du khách đến tham quan Cố cung Bác vật viện, đều có nhân viên thuyết minh từ nguồn gốc đến những bước thăng trầm của “Trống đá”, một di vật khắc thạch tối cổ của lịch sử văn hoá Trung Hoa.
Lật Tư
Trần Yên Thảo trích dịch
Dịch từ “Đường Thi Cố sự Tục tập” của Lật Tư (quyển 2). Trung Quốc; Quốc tế Quảng bá xuất bản xã Bắc Kinh – 1988.
Nguồn: Dịch giả gửi

















