Người thợ sửa xe

Posted: 30/06/2012 in Hà Việt Hùng, Hồi Ký

Hà Việt Hùng

Anh Phương là người thân quen đầu tiên tôi gặp sau những năm “cải tạo”. Xuống xe tắc xi ở ngã ba Hàng Xanh, sau khi trả hai đồng cuối cùng còn sót lại, tôi xách chiếc túi tự chế bằng bao cát ny lông của quân đội Mỹ, bước vội qua đường trong bộ đồ tù màu xám. Ngã tư xa lộ chưa có nhiều thay đổi sau những năm tôi vắng mặt. Tôi đi về phía chỗ anh Phương đang làm việc. Không phải tìm kiếm mất công, vì khi thăm nuôi, mẹ tôi có cho tôi biết anh ngồi sửa khoá ở đây. Anh có một chiếc xe đẩy bằng gỗ tự đóng lấy, chất đủ thứ linh tinh liên quan đến nghề anh làm. Khóa mới, khóa cũ, chìa đủ cỡ, đủ kiểu, cưa sắt, đục, búa, kìm…Chiếc xe đứng oằn xuống, nặng nề. Tôi nhận thấy anh có vẻ gầy, nước da sạm nắng, đen đủi, vì ngồi suốt ngày ở ngoài đường.

Tôi đến bên anh, tay vẫn xách chiếc túi.

– Chào anh Phương. Anh khỏe không?

Anh có vẻ ngạc nhiên vì sự trở về đột ngột của tôi. Nhưng anh nhận ra tôi ngay:

– À, bồ mới về.

Anh vẫn thường gọi tôi bằng “bồ”. Trước tháng Tư 1975, tôi dạy ở Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu, anh Phương là Hạ sĩ quan, cán bộ ở Trường này. Trong Trường, anh không chơi thân với ai, ngoại trừ tôi. Thỉnh thoảng anh và tôi mời nhau ly cà phê. Anh chưa có gia đình, xin được một căn nhà trong trại gia binh Cô Giang. Tôi và mẹ tôi cũng ở trong trại gia binh, nhưng ở dãy ngoài. Năm đó, tôi cũng chưa có gia đình. Có vài lần anh kéo tôi vào nhà anh chơi. Nhà sơ sài, khá rộng cho người ở một mình. Đồ đạc chẳng có gì. Một cái giường sắt của Mỹ, một cái bàn gỗ và một cây đàn ghi- ta. Ngồi trên giường, anh đàn vài bản nhạc cho tôi nghe, thường là những điệu thông thường như Rumba, Bolero, Slow. Sau tháng Tư, anh chỉ “học tập” vài ngày tại địa phương, sau đó vì “đói, đầu gối phải bò”, anh bắt đầu hành nghề sửa khóa tại ngã tư Xa lộ, vì nhà anh gần đó. Còn tôi, vì là Sĩ quan, lại mắc tội “nhồi sọ mầm non chống phá Cách mạng”, nên phải “học tập” mút mùa.

Anh kéo ghế cho tôi ngồi bên cạnh chiếc xe sửa khóa. Hai đứa cà kê dê ngỗng đủ mọi chuyện trên đời, ngoại trừ chính trị. Lát sau, anh hỏi tôi:

– Về đây rồi, bồ tính làm gì?

Nghe anh hỏi, tôi không trả lời được. Tôi học xong Văn Khoa năm 1970. Lêu bêu một năm ở Luật. Sau mùa hè đỏ lửa 1972, tôi được gọi Thủ Đức. Ra trường, nhận đơn vị ở Tiểu khu Vĩnh Long, lội nước, hai lần bị thương, sau thuyên chuyển về Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu, rồi lại lêu bêu thêm một năm nữa ở Luật. “Nghề nghiệp” chỉ có thế. Bây giờ nghe anh hỏi tính làm gì để sinh sống, tôi đã ngập ngừng, lúng túng, không biết trả lời thế nào. Tiếp tục nghề “gõ đầu trẻ” chắc chắn là không được nữa rồi, vì không nơi nào muốn giao công việc ấy cho một người bị coi là có “lý lịch” xấu. Hơn nữa, tôi cũng không muốn đi dậy để nhận đồng lương “chết đói” của kẻ thắng trận.

– Tôi còn phải trình diện địa phương. Sau đó mới tính được.

Anh gật gù:

– Ừ, trình diện cho xong đi.

Rồi anh hỏi tôi:

– À, bồ có biết nhà không?

Tôi lắc đầu. Năm năm trước, tôi dọn từ Vũng Tàu về Sài Gòn, trông nhà cho bà chị họ trong Cư Xá Phủ Tổng Thống, dưới chân cầu Sài Gòn. Đó là căn biệt thự nhỏ, xây cất chưa xong. Sau đó, tôi phải ra Long Thành “học tập”. Bà chị họ đã bán rẻ căn biệt thự này, nghe đâu, cho một tay cán bộ. Mẹ tôi đã mua một căn nhà ọp ẹp mái tôn sau bến xe Văn Thánh, sống một mình chờ ngày tôi về.

Anh Phương đứng dậy, vừa chỉ tay về hướng cầu Sài Gòn, vừa nói:

– Bồ cứ đi thẳng theo đường này, qua cầu Văn Thánh, đến bãi xe vận tải có hàng rào B40 thì quẹo trái, nhà bồ nằm sau hàng rào đó.

Nói xong, anh thò tay vào túi áo, rút ra tờ giấy mười đồng, đưa cho tôi.

– Bồ cầm lấy. Tôi cũng không giầu có gì. Mấy hôm nữa ra đây.

Tôi định từ chối, nhưng không được. Tôi chào anh, tay xách túi, lững thững đi về phiá cầu Văn Thánh.

Đến trước căn nhà tồi tàn, mái lợp tôn, chung quanh vách được chắp vá bằng những tấm thiếc han rỉ, mặt tiền có cái quán nhỏ, tôi đoán đó là nhà mình, vì có lần mẹ tôi nói là phiá trước nhà có cho cô Kim mướn bán cà phê.

Dù biết chắc là nhà của mẹ mình, tôi vẫn hỏi cô chủ quán:

– Thưa chị, đây có phải là nhà của bà Năm?

Chị chủ quán nhìn tôi. Chừng như nghĩ tôi là con bà chủ nhà, chị gọi với vào nhà:

– Bác ơi, con bác về kìa.

Mẹ tôi chạy ra. Hai mẹ con đứng ở ngạnh cửa.

– Con.

– Mợ. Con mới về. (Tôi gọi mẹ tôi là mợ.)

Hai mẹ con tôi ôm nhau. Không ai nói được tiếng nào. Mẹ tôi ốm quá, hai bàn tay gầy đét, trơ xương. Tóc mẹ tôi đã bạc đi nhiều. Đấy là chứng tích của những năm tháng mòn mỏi đợi chờ. Chừng như hai mẹ con tôi cứ đứng như thế lâu lắm, ôm nhau, nghẹn ngào.

Trong khi mẹ con tôi đang nói chuyện, chị Kim mang vào cho tôi một ly cà phê đá. Đấy là ly cà phê tuyệt vời nhất tôi được uống sau những năm “cách biệt thế gian”. Rồi bà hàng xóm bên cạnh mang qua cho hai lon sữa bò đựng gạo. Một lần nữa, tôi lại muốn ứa nước mắt. Không cần hỏi mẹ tôi, tôi cũng biết tình cảnh gia đình mình túng quẫn như thế nào. Trong nhà, chẳng có gì có thể bán được tiền, ngoại trừ cái bàn gỗ và hai cái giường sắt kê trên nền nhà bằng đất. Tháng sáu 1975, trước khi đi ở tù, tài sản quý giá nhất tôi để lại là chiếc Honda Dame, mấy thùng sách vở, một ít tiền mặt dấm dúi vào tay mẹ và một khoản tiền “nước miếng” tôi đã nhẹ dạ cho anh An ở Vũng Tàu mượn làm vốn. Rồi năm năm túng thiếu, lại không quen gồng gánh bán bưng, cộng với sức khỏe ngày càng yếu dần, mẹ tôi đã phải bán chiếc xe đi, cân kí lô từng cuốn sách, từng cuốn tự điển, và thỉnh thoảng bỏ ra vài ngàn mua vé xe đò ra Vũng Tàu để “đòi nợ” cũng chỉ được vài ngàn.

Những năm ở trại “cải tạo”, tôi cũng đã nhiều ngày bị đói, nhất là hơn hai năm cuối cùng ở Bù Loi gần ngã ba Minh Hưng, và sau cùng là Bù Gia Phúc. Lúc tôi còn ở T2, thành Ông Năm, Hốc Môn, thỉnh thoảng mẹ tôi có đi thăm nuôi. Mỗi lần như thế, mẹ tôi lại phải đến họ hàng, hay những chỗ quen thân để xin giúp đỡ. Chỗ thì vài cục đường tán, chỗ thì vài gói mì ăn liền. Mẹ tôi gói ghém mang đến cho con. Những thực phẩm đó chỉ đủ cho một người đói dùng trong 2 ngày. Biết là mẹ phải sống chật vật, tôi có dặn mẹ tôi đừng đi thăm khi tôi bị chuyển vào rừng. Đoạn đường rừng dài mười mấy cây số từ Phước Long vào đến Bù Loi, xã Minh Hưng, nhất là vào mùa mưa, đường sình lầy trơn trượt, trẻ đi đã khổ, huống gì một người đã luống tuổi, yếu ớt như mẹ tôi.Vì vậy hơn hai năm ở Phước Long, tôi không muốn mẹ đi thăm nuôi. Lẽ dĩ nhiên là đói lắm. Mới hôm qua thôi, mặc dù đã được trả tự do, tôi vẫn không tránh được cảnh bị đói. Những người về đợt này được gọi dậy vào lúc 4 giờ sáng. Khoảng 15- 20 người tụ tập ở sân cột cờ, đợi gọi tên, lấy giấy ra trại và nhận 12 đồng lộ phí. Có người đã thay quần áo khác. Riêng tôi vẫn bộ đồ tù vì không còn bộ đồ nào khác. Lúc đó chúng tôi ở Bù Gia Phúc. Nghe nói rừng Bù Gia Phúc cách Phước Long 18 cây số. Điền giấy tờ rồi chờ gọi tên mãi tới 9 giờ sáng mới xong. Ai cũng nôn nóng và lo lắng không biết có phương tiện nào để ra khỏi rừng. May quá lúc đó có một chiếc xe tải nhỏ, cũ kỹ, chở người vào thăm nuôi “cải tạo”, chúng tôi theo ra, sau khi trả mỗi người 8 đồng. Trên nét mặt mỗi người, có những nét vừa hoan hỷ, vừa lo âu. Ngồi trên xe, tôi cảm thấy vững tâm khi tự trang bị cho mình bằng mấy củ khoai mì sống bỏ trong bao lát. Mãi đến trưa, xe mới bò đến được thị xã Phước Long. Riêng tôi còn phải đi hai chặng xe nữa mới đến được Hàng Xanh. Lúc đó không còn xe để về Bình Triệu nữa. Đêm đó chắc chắn tôi phải ngủ ở Phước Long rồi sáng hôm sau mới đi Bình Triệu được. Vài người lục đục vào mướn nhà trọ rồi tìm chỗ ăn uống. Tôi hơi lo. Trong túi chỉ còn bốn đồng. Mướn một chiếc ghế bố ở nhà trọ giá hai đồng một đêm. Còn lại hai đồng, làm sao đủ tiền để về đến nhà ngày mai?

Trời đã hơi chạng vạng tối. Tôi cảm thấy bao tử mình trống trơn, đau thắt. Từ sáng sớm ở trong rừng đến giờ tôi chưa có một thứ gì bỏ vào bụng. Mấy củ khoai mì sống mang theo, vẫn chưa có dịp để luộc hay nướng. Sau vài lần chần chừ, tôi đành nói với cô thư ký nhà trọ cho tôi mướn một cái ghế bố. Cô ta cho biết hết chỗ rồi, tôi đã thấy thất vọng, nhưng lát sau cô ta lại nói, nếu tôi muốn ngủ trọ, cô ta sẽ cho tôi mượn một cái ghế bố không lấy tiền. Tôi cám ơn cô ta rối rít. Trời đất vẫn còn thương tôi. “Đang buồn ngủ, gặp chiếu manh”. Sẵn dịp, tôi nói với cô ta cho mượn cái nồi để luộc mấy củ khoai. Khi khoai chín, tôi ăn ngấu nghiến cho đầy bụng, phần còn lại để dành cho ngày mai. Đêm đó, tôi nằm xoay xở mãi, vừa mừng vừa lo, không biết mình sẽ sinh sống ra sao và không biết có được yên thân trong những ngày tháng sắp đến hay không.

Sáng hôm sau, tôi lên xe đò về Bình Triệu với giá hai đồng. Đến ga Bình Triệu, trong túi còn đúng hai đồng. Một chiếc tắc xi rà lại, bốn năm người chúng tôi leo lên về Hàng Xanh, mỗi người hai đồng. Thế là hết nhẵn 12 đồng lộ phí.

Hôm sau tôi cuốc bộ ra Phường trình diện. Hai ba lần như thế mới tạm xong nợ. Lần nào lúc về cũng ghé chỗ sửa khóa của anh Phương, vì chỗ anh ngồi làm ở giữa Phường và nhà tôi. Một hôm anh lại hỏi tôi định làm gì để sống. Tôi lại im lặng. Mãi đến hai ba lần sau anh mới kết luận, chắc nịch như đinh đóng cột:

– Phải quyết định nhanh lên, không thì…chết đói đó nghe cha.

Tôi biết anh “tức” lắm và thân tình lắm mới nói như thế. Thực ra, không cần đợi nghe anh nói, tôi mới biết tình trạng như thế. Từ khi Cộng sản chiếm được miền Nam, đời sống của người dân càng lúc càng trở nên thiếu thốn, bi đát. Ở trong trại, chúng tôi được truyền bá cái triết lý “lao động là vinh quang”. Cái triết lý này đã có từ thời đồ… đất. Nó chẳng khác gì câu nói nôm na “muốn ăn phải lăn vào bếp”. Câu này đến đứa con nít cũng biết. Mấy hôm nay tôi đã thấy mẹ tôi đứng xếp hàng mấy tiếng đồng hồ để được gọi tên mua vài ba ký gạo, một vài cân đường, hay mấy ổ bánh mì nhỏ. Mấy hôm nay tôi đã thấy giá trị thiết thực của tờ hộ khẩu. Không có nó là không xong.

Tôi thành thực:

– Tôi chưa biết làm gì cả. Tôi cũng lo lắm anh ạ.

Anh Phương nhìn tôi, nói không cần suy nghĩ:

– Làm nghề sửa xe đi. Bây giờ người ta đi toàn xe đạp. Hư hoài, sửa hoài. Cả vá ruột xe nữa. Bồ ngồi ở lề đường kia kìa. Tôi cho bồ mượn tiền mua đồ nghề.

Nghe anh Phương đề nghị, tôi như trên trời rơi xuống. Chưa bao giờ tôi nghĩ chuyện sửa xe, vá xe lại là nghề của tôi và lại là nghề độ nhật. Nghề này đòi hỏi phải có sức khỏe, kinh nghiệm, khéo léo, mà tôi lại không có. Ngay khi ấy, tôi muốn ứa nước mắt. Tôi nghĩ đến những người bạn may mắn của mình đã đi được trước, hoặc vượt biên sau ngày 30 tháng tư 1975. Tôi nghĩ đến thân phận của mình giống như con cá nằm trên thớt. Rồi đời mình sẽ về đâu, ra sao? Nhưng tôi phải cám ơn anh Phương đã đưa ra đề nghị thật thực tế. Vài người bạn của tôi khi về, có người phải đạp xích lô, có người đi bán bánh bao, có người  bỏ mối thuốc Tây, nghĩa là phải làm những nghề bất đắc dĩ để sinh sống và nuôi gia đình.

Bỗng nhiên tôi nhớ đến Lụa ở xóm Bến Cát, Gò Vấp. Ông anh Lụa làm nghề sửa xe chuyên nghiệp tại đây, rồi truyền cho Lụa. Lụa làm nghề có lương tâm, cẩn thận, lấy giá rẻ, nên hầu như ai ở Gò Vấp có xe hư cũng đều mang đến cho Lụa sửa. Chỗ Lụa làm bao giờ cũng nhiều xe. Làm tới tấp, không hết.

Tôi xuống xóm Bến Cát, Gò Vấp học nghề Lụa. Lụa ân cần chỉ dẫn tôi từng chút. Tôi học cách cậy vỏ xe, vá keo, vá ép, kể cả lộn sên… Sau một tuần lễ cũng tạm thành thạo. Đến nỗi Lụa phải nói: “Em phải công nhận là anh học nhanh thật. Em có thằng đệ tử. Nó học mấy tháng rồi, vẫn chưa ra chi”. Tôi pha trò: “Cái khó nó ló cái khôn, em ạ”.

Anh Phương cho tôi mượn 50 đồng để mua đồ nghề. Vài dụng cụ sẵn có anh cho tôi mượn. Tôi tìm mua một cái piston to để chế thành dụng cụ vá ép. Một hôm lang thang, tôi thấy nó nằm trong một cửa tiệm sửa chữa xe gắn máy ở gần Cầu Mới, tôi hỏi anh thanh niên có lẽ là chủ tiệm.

– Em ơi, cái piston này có bán không?

Anh thanh niên trả lời:

– Dạ có. 2 đồng rưỡi.

Anh thanh niên đưa cho tôi xem cái piston. Nó còn khá đẹp. Chợt anh ta nhìn tôi, hỏi:

– Có phải anh là Sĩ quan mới đi “học tập” về?

Tôi gật đầu. Anh ta lấy cái piston khác đưa cho tôi:

–  Đây là piston xe máy cầy. Anh cầm cái này về xài. Em không lấy tiền anh đâu.

Tôi cầm cái piston hơi bể một chút phía trên miệng. Nếu “chế” thành dụng cụ vá ép ruột xe, vẫn còn quá tốt. Nửa ngạc nhiên, nửa mừng, tôi nói lời cám ơn. Anh ta dặn dò:

– Khi làm, nếu có gì trục trặc, anh cứ đến hỏi em.

Tôi cám ơn anh ta một lần nữa. Trong xã hội miền Nam lúc ấy, vẫn còn nhiều người thông cảm với “tù cải tạo”. Ở nhiều nơi chúng tôi còn nhận được sự giúp đỡ, có khi rất tận tình. Có người rất vui vẻ, cởi mở. Hôm chờ xe ở Phước Long, tôi gặp hai bà cô (có lẽ là người đi buôn). Một bà hỏi tôi có gia đình chưa. Tôi nói chưa. Bà vui vẻ nói, sẽ làm mai cháu gái cho tôi. Biết chỉ là lời nói đùa cho vui, nhưng nó đã làm cho lòng tôi ấm áp, vì được an ủi, vỗ về. Rồi bà chia cho tôi nửa bịch thuốc rê. Hút gần tuần lễ mới hết.

Tôi mang cái piston đến cho Lụa xem. Lụa hàn cho tôi một cái bàn vá ép. Cậu Dũng cho tôi mượn cái ống bơm. Ba của cô bạn cũ tên Vân cho tôi vài miếng keo vá ép không dùng tới. Tôi thấy ở xó nhà có một cái thùng đạn đại liên, có thể đựng đồ nghề và cái nón sắt mẹ tôi dùng để giã cua. Tôi dùng cái nón này đựng nước để thử ruột xe xem chỗ nào bị xì. Vậy là tương đối đầy đủ cho ngày “ra quân” đầu tiên.

Anh Phương chỉ tôi ngồi ở lề đường, phiá trước xe khóa của anh. Đến xế trưa tôi mới có việc làm.  Một người đàn ông dắt chiếc gắn máy bị xẹp bánh vào cho tôi vá. Vì đã được huấn luyện kỹ lưỡng, tôi làm chuyện này không mấy khó khăn. Dựng xe lên, cậy vỏ xe, kéo ruột ra, bơm cho có hơi, rà trong cái nón sắt đựng nước, đánh dấu chỗ sùi bọt, lau cho khô chỗ bị xì, chà cho sạch (dùng ống lon sữa bò, đục những lỗ nhỏ, làm dũa). Nếu là xe đạp, chỉ cần vá tay. Đến giai đoạn này, cắt thêm một miếng ruột xe bỏ, lớn hơn chỗ bị xì một chút, rồi cũng chà cho sạch, bôi keo cả hai chỗ đã chà, đợi cho keo hơi ráo mặt (khoảng 1- 2 phút), dán miếng cao su này vào chỗ bị xì, cuộn trên một miếng gỗ tròn, lấy cây gõ nhè nhẹ để miếng cao su này dính chặt vào chỗ bị xì. Nhưng nếu là xe gắn máy, xích lô, ba gác… phải vá ép. Sau khi bôi keo vào chỗ bị xì, cắt một miếng keo màu nâu đen (phải mua), đặt lên trên chỗ bị xì, che bằng miếng giấy bạc bao thuốc lá hay bằng lá chuối cho khỏi dính, rồi lấy cái piston đang nóng (có thể đốt bằng dầu hôi) đặt lên, vặn chặt. Đợi vài phút cho miếng keo chín, lấy ra, ngâm ngay vào nước lạnh cho nguội. Nếu kỹ có thể bơm lên thử lại, rồi bỏ ruột vào vỏ xe cho đều, nắn vỏ ngay ngắn, bơm lên. Thế là xong.

Bình thường, vá một chiếc xe chỉ như thế, không có gì khó khăn. Mệt nhất là khi bơm. Hồi đó còn là thanh niên, dù mới đi “tù” về, tôi có thể bơm khá căng vỏ xe gắn máy bằng ống bơm tay, nhưng không thể bơm nổi vỏ xe xích lô hay ba gác là những chiếc xe cần vỏ căng cứng.

Tôi ngồi làm ở lề đường như thế khoảng một tháng thì…không chịu nổi vì trời nắng quá. Tôi dọn về ngồi ké quán cà phê của ông bà Bẩy gần cầu Văn Thánh, nhưng chỗ này lại ngay bến xe, chật chội quá. Được một thời gian tôi lại dọn tới ngồi nhờ cái chòi của nhà ông bà Tường. Tại đây, khi không có khách sửa hay vá xe, tôi kèm Anh Văn cho vài đứa nhỏ quanh xóm cho vui.

Từ 1981 trở đi dân chúng miền Nam còn vất vả, nghèo khó. Lương công nhân nhà nước chỉ khoảng 6- 7 chục đồng một tháng. Ai có chiếc xe đạp là cả một gia tài. Phần lớn phụ tùng đều “dỏm”. Những viên đạn (bi) trong đùm xe làm bằng sắt mềm hay bằng chì. Chỉ chạy được vài ngày, những viên đạn đó méo mó, bể nát, phải vứt đi. Vỏ xe cũng vậy, không đạt tiêu chuẩn an toàn. Xe đang chạy, nổ vỏ, gẫy sườn, gẫy cổ xe là chuyện…bình thường.

Không ngờ tôi lại có tài “sáng tạo”. Tôi có thể khâu ta- lông, lót vỏ xe lủng…, làm hầm bà lằng để cho một chiếc xe đạp chạy được, và nhất là bao giờ cũng thành thật, vui vẻ và say mê với công việc. Khi gặp xe bể bánh, khách quen vẫn thường mang đến cho tôi, đi đâu đó một hồi rồi mới tới lấy. Tôi thử ruột xe, nếu thấy bể hai lỗ trở lên là tôi không vá. Đợi chủ xe quyết định, mới vá sau. Nhờ làm ăn như vậy, tôi có khá nhiều khách quen. Có người, nhà ở Bẩy Hiền, xe bị hư, đã không ngần ngại chở xích lô đến cho tôi sửa. Nói thế, để thấy xe đạp giá trị như thế nào vào thời cả nước đang tiến nhanh tiến mạnh lên Chủ Nghĩa Xã Hội.

Hằng ngày tôi ngồi sửa và vá xe ở lề đường, làm việc có khi không kịp ăn để giao xe cho khách. Tôi không thấy “mắc cở” hay mặc cảm gì cả. Tôi chỉ thấy buồn cho số phận hẩm hiu. Nhưng tôi lại tự an ủi mình. Có những người bạn “cải tạo” đồng cảnh ngộ làm thợ sửa xe như Thuận, hay đạp xích lô như Hoan, Tư, Hồng. Thỉnh thoảng những người bạn này lại tạt ngang thăm tôi khi gặp dịp bắt khách ở Hàng Xanh. Lũ chúng tôi sinh ra đã không được may mắn, lại còn chậm chạp vào giờ phút cuối cùng.

Thường ngày khi làm việc, tôi cởi trần trùng trục, mặc chiếc quần soọc mẹ tôi đã vá cả trăm miếng, mặt mày, tay chân dính dầu mỡ đen thùi, người ngợm hôi hám, xấu xí.

Năm tôi đi “học tập” về, công an Phường để yên không nói gì tới, vì chương trình “kinh tế mới” gần như đã thất bại. Nếu không, mẹ con tôi đã phải bỏ nhà, đi đào đất trồng khoai ở nơi “khỉ ho cò gáy” nào rồi.

Một hôm có một người khách già mang đến một cặp niềng (rims) như loại niềng xe thồ, một bó căm (spokes) và hai cái đùm (hubs), nhờ tôi rút căm. Khi đó tôi chưa biết rút căm, nhưng tự ái vì mình là thợ, không biết rút căm thì “quê” quá. Tôi làm bộ lục tìm dụng cụ rút căm trong thùng đạn. Sau cùng tôi cáo lỗi vì để quên đồ nghề ở nhà. Ngày hôm sau, tôi qua tiệm anh Hiến cách đó chừng trăm thước hỏi cách đan và rút căm. Biết tôi “đi tù” về, anh Hiến sốt sắng chỉ tôi từng chút. Từ đấy tôi có thêm nghề rút căm xe và dần dần trở nên thiện nghệ.

Bên cạnh nhà ông bà Tường là nhà ông bà Phát, rồi đến nhà Phường Trưởng P25, vì vậy thỉnh thoảng tôi vẫn xích qua nhờ nhà ông bà Phát có cái sân rộng phía trước. Riết rồi quen, ông bà Phát cho tôi ngồi sửa xe luôn. Một hôm ông Phát hỏi nhỏ tôi có muốn vượt biên không, ông còn một chỗ muốn cho tôi, vì thấy tôi “cải tạo” về, với một điều kiện tôi lo cho ba đứa con ông cùng đi theo. Tôi nhận.

Hẹn nhau vào lúc 1 giờ chiều tại bến xe lam, rồi xuống Mỹ Tho. 12 giờ trưa hôm đó tôi còn ngồi ăn cơm với mẹ tôi ở nhà. Tôi dặn mẹ tôi đủ thứ, từ giá cái xe đạp tôi mới ráp, đến chuyện mẹ tôi phải làm gì sau khi tôi đi. Thoạt đầu, mẹ tôi không biết tôi định vượt biên. Sau thấy tôi dặn kỹ quá, mẹ tôi sinh nghi. Tôi cảm thấy đắng trong miệng, thương mẹ nuốt không trôi mấy miếng cơm. Tôi nhớ đã nói với mẹ tôi: “Sang Mỹ, con sẽ gửi tiền về cho mợ, rồi sẽ bảo lãnh mợ…” và nhớ mẹ tôi đã trả lời: “Con có gửi vàng về, mợ cũng không vui đâu. Ở đây nghèo đói mẹ con có nhau…” Rồi mẹ tôi khóc. Tôi cũng không cầm được nước mắt. Lúc đó cu Sơn con ông bà Phát đến, giơ một ngón tay cho tôi thấy, ngầm bảo tôi sắp tới 1 giờ. Tôi nhìn Sơn, gật đầu. Tự nhiên trời mưa. Cơn mưa bóng mây cũng đủ làm cho tôi se lạnh. Tôi nói nhanh với mẹ tôi: “Ở đây khổ quá, con chịu không nổi. Con phải đi thôi.” Nói xong, tôi chạy vù ra khỏi nhà, trốn con mắt tò mò của cô Kim bán cà phê, và trốn đôi mắt đau khổ của mẹ tôi. Cu Sơn chạy theo. Nước mưa che những giọt nước mắt của tôi.

Ông Phát là người chở chúng tôi đi. Ông ngồi trên xe đợi chúng tôi trên cầu Văn Thánh. Trên xe đã có hai đứa con của ông, thêm Sơn và tôi. Tôi thấy có một người đàn bà trạc 50. Bà này có “nhiệm vụ” đưa chúng tôi đi. Ông Phát lái xe lam đưa chúng tôi xuống Mỹ Tho rồi quay về. Lúc đó khoảng 5- 6 giờ chiều. Chúng tôi đi lòng vòng quanh bến xe, làm như người đang chờ xe về Sàigon.  Đêm hôm đó chúng tôi chia nhau ngủ tạm tại bến xe, chờ “taxi” đón. Tôi nằm trong bóng tối nhớ đến mẹ tôi. Chắc ở nhà mẹ tôi đang khóc. Tôi cũng không ngăn được những giọt nước mắt.

Khoảng 10 giờ, bà đưa đi hỏi tôi:

– Cậu còn ai ở Sàigòn không?

Nghe bà hỏi như thế, tự nhiên tôi lại sụt sùi. Nước mắt ứa ra ngon lành. Tôi đã tưởng mình không còn nước mắt để khóc nữa.

– Cháu thấy thương mẹ cháu quá, bác ạ. Thôi, cháu không đi đâu. Làm sao cháu đành tâm đi cho được.

Bà ta trố mắt nhìn tôi:

– Ơ cái cậu này, sao ở nhà cậu không nói?

Tôi không trả lời bà, tiếp tục sụt sùi. Tôi thương mẹ tôi quá. Người đàn bà đã một đời đau khổ vì chồng con. Mẹ tôi đã vất vả một mình nuôi tôi từ khi tôi mới 2- 3 tuổi. Mẹ con tôi lúc nào cũng có nhau, dù lúc no, lúc đói. Chỉ có những năm tháng “ở tù” tôi mới thực sự phải sống xa mẹ tôi. Tôi không thể vượt biên, bỏ mẹ tôi sống một mình được nữa. Cứ tưởng tượng cảnh người mẹ già phải sống thui thủi một mình, sẽ hiểu lòng đứa con tan nát như thế nào khi ra đi.

Đến 11 hay 12 giờ đêm đó thì có tin “bị bể”. Hy vọng tin xấu đến mà nguyên do không phải tại tôi gây ra. Ngay lúc đó tôi không biết mình nên vui hay nên buồn. Sáng sớm hôm sau tôi đáp xe về Sàigòn, rồi ngày sau ra sửa xe lại, làm như không có chuyện gì xẩy ra. Ba đứa con ông bà Phát đã về từ hôm qua. Chúng tôi không đả động gì đến chuyện vượt biên “hụt”. Trong lúc đang làm, công an khu vực ra lệnh cho tôi ngày mai lên Phường “làm việc”, lý do cho biết sau. Tôi biết ngay là vụ tôi “vượt biên”.

Tôi tới gặp Phường Trưởng. Anh ta hỏi tôi:

– Anh có biết lý do gì tôi mời anh tới đây không?

Tôi làm bộ ngơ ngác:

– Dạ, không. Tôi đang thắc mắc.

Anh ta cười nhạt:

– Anh bị kết “tội vượt biên”.

Vì biết anh ta không bắt được quả tang, tôi cứ cãi cố. Cuối cùng, anh ta cũng thôi. Từ đó trở đi, tôi lại tiếp tục lê la ở lề đường. Mấy tháng sau, ông bà Phát cho cậu con trai thứ tư vượt biên. Chuyến đi lần này ông bà không cho tôi biết, và đã trót lọt. Thuyền được tầu Canada vớt.

Tôi vẫn hành nghề sửa xe trước cửa nhà ông bà Phát. Đến cuối 1982, nhờ giới thiệu, tôi có mấy chỗ dậy tư nhưng lương lậu chưa được là bao. Ban ngày tôi vẫn phải sửa xe. Đến 4- 5 giờ chiều dẹp “tiệm”, chạy về nhà tắm gội, kỳ cọ hai bàn tay cho sạch. Rồi chạy đi dậy đến 9- 10 giờ đêm mới về. Nhiều khi đứng trước học trò, tôi phải dấu hai bàn tay dính dầu mỡ kỳ cọ chưa kỹ của mình. Đến năm 85, tôi mới hoàn toàn dứt bỏ được nghề sửa xe.

Thật ra, phải cám ơn anh bạn Phương tôi mới có nghề này, một nghề đã giúp tôi sống đàng hoàng, ngay thẳng, tự lập. Và sau cùng, không quên cám ơn Xã Hội Chủ Nghĩa đã giúp tôi hiểu rõ “lao động là vinh quang”, và giúp tôi có cơ hội trở thành người thợ sửa xe…vĩ đại.

Hà Việt Hùng
Nguồn: Tác giả gửi

Đã đóng bình luận.