Dốc cạn hồ trường

Posted: 20/10/2012 in Hoàng Quy, Truyện Ngắn

Hoàng Quy

Chuyến xe đò về tới ngã ba Hương An lúc 5 giờ sáng. Trời tháng ba ở quê nhà còn mờ sương. Tôi mang hành lý vào quán cà phê mở cứa sớm bên kia đường. Trên quốc lộ một xe cộ đã nhộn nhịp. Ngày mới bắt đầu như ngụm cà phê thơm ngát vừa chạm vào đầu lưởi. Cảm giác ngọt ngào hưng phấn vừa lan tỏa khắp cơ thể, sau gần hai mươi tiếng đồng hồ ngồi bó gối trên xe.

Ngả ba Hương An. Có phải chốn nầy là nơi hò hẹn. Bến đổ dừng chân. Nơi để quay về, để ra đi. Có bao cuộc chia tay ngã ba ước đẩm sương chiều trong nỗi đời đầy bất trắc, chờ mong…Không nhớ đã bao nhiêu năm rồi, tôi mới quay về ? Mọi thứ đều đổi thay. Hình như chỉ có ngã ba nầy là không thay đổi. Vẫn con đường rẻ trái, từ phía Nam đi về. Vẫn cái tên nghe dịu dàng, ấm áp : ngã ba Hương An đưa tôi về cố quận.Chỉ có khác xưa, con đường bây chừ lớn hơn, trải nhựa, hun hut chạy tít về phía chân đèo. Ai qua chợ Nón, chợ Đàn – mây giăng Quế Thuận, gió ngàn đèo Le – Nhớ chi Đông Phú mưa nhòe – Mắt nâu thăm thẳm trời quê một mình. Chỉ có con đường duy nhất xẻ dọc cố hương, từ quốc lộ dắt diu tôi về chốn cũ phía bên kia đèo Le. Con đèo thơ mộng bảy cây số nầy, tôi đã từng qua lại không nhớ bao nhiêu lần. Từ những ngày con đèo con đau mình sỏi đá, lau lách âm u.Ngày xa xưa ấy, con đèo nầy là huyết mạch của người dân ở hai miền đông tây huyện Quế Sơn. Một gánh nồi đất, một gánh bún sắn, từ chợ Đông Phú gánh bộ, vượt đèo hơn hai mươi cây số mới về đến chợ Trung Phước. Cơ khổ biết chừng nào ! Có những lúc con đèo tương tư đưa tiển người ra đi mà chẳng thấy quay về. Giọt lệ nào xót xa ngọn cỏ ven đường,gởi lại trên đầu khe, ngọn suối bước chân tương biệt não nề: Qua khe sợi gió vướng chiều – Sợi mây vướng tóc, ai dìu em qua…Đèo Le chia nửa chiều tà – Khói sương Đông Phú, nhạt nhòa Tây Viên.   Nhiều lúc, nằm trên lưng đèo, giữa trua hè bên bờ Nước Mát để thấy tâm hồn mình mênh mang như đại ngàn,    trong veo như dòng suối róc rách hàng ngàn năm trôi qua trong gió sớm, mây chiều giữa dòng thời gian vô tận. Phải chăng, ta chỉ là hạt bụi trong mịt mù của hàng triệu thiên hà. Một chấm nhân sinh trong vũ trụ bao la có hàng trăm ngàn nền văn minh đang bay lơ lửng trong muôn vạn trùng lai…Ai biết được ?Nhưng, không có nơi nào cho ta trở về chốn cũ. Nơi ấy, có một dòng sông xanh mát, một bến nước nguyên sơ ôm con đò nhỏ, một đời hò hẹn tương phùng. Có bao nhiêu con đường rợp bóng tre xanh, có bao nhiêu ngã ba đưa ta về chốn cũ…Ôi mặt đất rộn rả bước chân người mà hoang vu đến thế !

Đời sống đã tạo nên những con đường, con đường sinh ra những ngã ba mang tên người, tên đất. Nhưng dù tên gì đi nữa, ngã ba đã cưu mang bao nhiêu nỗi sầu ở lại, nơi nầy nỗi nọ xao xát lá rơi, mấy cõi u tình. Những ngã ba đã nhuộm tím lòng người không biết từ thuở nào mà trường lưu tri ngộ như chén rượu ngã ba đời, chếnh choáng bóng mây, đáy cốc vô tình, cuối bờ kinh lộng gió.Xin dốc cạn thời gian rơi rớt trong cõi đất trời mà nghe vũ trụ ảo giác đa doan.

Căn nhà ba gian lạnh giá hai mươi năm qua. Mẹ tôi ra đi không hẹn quay về.Nỗi hoang phế rêu phong, tan tác một đời người. Bữa ấy, giữa mùa ngô, tôi đốt lửa phia đầu hiên nướng bắp. Ngọn lửa râm ran ấm lại ngôi nhà.Lâu lắm rồi, nhà mẹ tôi mới có tiếng cười rộn rả, có kẻ đi về xúm xít quanh bếp lửa nồng thơm mùi bắp nướng chân quê. Mạc Ly nói với Tiêu Đình, Phan Đắc Lữ, Duy Trực, Thiên Hương…” Biết bao giờ mới có lại cuộc hội ngộ ấm áp như bữa tiệc đầu hiên thế nầy” ! Ừ. Không ai nói điều chi nữa. Ngọn lửa đầu hiên, sẽ vắng lặng tro tàn, ngậm ngùi như ngày tháng đã qua trong quảng đời ngắn ngủi phù du.

Mùa hè đỏ lửa.Huế buồn như cõi xa lạ không người. Cầu Tràng Tiền run run trong chiều nắng úa, cô đơn nằm nghe nhịp thở đôi bờ.Chợ búa không họp. Phố xá đóng cửa im lim.Cuộc chiến đã kéo về tận cửa thành nội. Ngoaì kia, pháo vẫn rót liên hồi suốt đêm không ngớt.Bửa cơm tối hôm ấy, anh Phan Du ăn không được, nhai mãi miếng thịt chó quá già, hồi chiều mua ở góc phố chợ ĐôngBa. Cơm gạo sấy, thịt cầy kho vẫn an nhiên giữa những ngày đêm hỏa châu soi sáng   cả  chân trời  Huếsương mờ… Đêm hôm ấy, chúng tôi ngồi uống trà suốt đêm ngoài hành lang đài Huế.Nguyễn Tuyển, Phí Ích Bành, nhà văn Phan Du, nhà thơ Đổ Tấn và tôi. Mỗi người đều mang trong lòng một nổi lo và cùng chung một ước mơ sẽ có ngày an bình trên quê hương đau khổ nầy. Tiếng hát Khánh Ly vọng về từ đâu đó, man man bóng dáng khô gầy. Khánh Ly đi chân đất, mặc áo vải thô, tóc xỏa vai mềm, hút thuốc ba số, hát những khúc tình ca của Trịnh Công Sơn trên giảng đường Văn Khoa đêm nào…

Rằm tháng hai, tôi quay về chợ Ròn.Qua làng Hải Trình, cây cầu vừa mơi xây xong, phải chạy một vòng xoáy, dẫn về những con đường hồi sinh. Xa xa về phía đông bắc cây cầu Ca Cút mờ ảo trong mưa phùn như một cái vòng mống mờ đục bắc qua phá Tam Giang dài chừng sáu trăm mét nối liền quốc lộ 49 ven biển cửa Thuận An với Huế. Ngồi bên ni sông làng Hải Trình, phía bên kia sông là nhà chị ruột bạn tôi. Chị ấy vừa qua đời. Trước giờ ra đi, chị trăn trối :”Hãy chôn cất mẹ trên nền nhà cũ”… Con sông nhỏ nầy là nhánh của dòng Hương Giang. Đôi bờ trông thấy nhau mòn một. Gió chiều bay lướt thướt trên dòng sông quê mang chút se lạnh từ cửa Thuận An thổi về. Tôi nói với giáo Ngà ;” Về thôi. Chị ấy cũng đã quay về chốn cũ, yên bề. Ở đó, chị có thể nhìn qua bên ni sông, nơi chôn nhau cắt rún, có cả một đời hạnh phuc và khổ đau.”

Hơn ba mươi năm rồi, những người bạn cũ ở bên kia trời tây chưa thấy quay về. Có người không bao giờ về nữa. Mỗi cuộc ra đi, phải  chăng là một tiến trình miệt mài tìm kiếm, tìm kiếm trong vô vọng, trong khát khao của một đời loanh quanh bờ vực,hố thẳm miên man. Biết rằng ra đi rồi cũng quay về. Không có chuyến đi nào biền biệt trong sự tồn vong, dù trong cõi nầy hay chốn khác. Chỉ là những cuộc đổi thay, chuyển dịch trong mọi trạng thái  của vật chất và tâm linh. Nhưng trong kiếp nhân sinh hửu hạn nầy, ta có còn lắng nghe giòng tâm tư đang trôi thê thiết trong nhân thế sự tình. Nữa năm trước, tôi về Hội An, ra miểu Ông Cọp thăm bác Hai, thân phụ của nhà thơ Hoàng Lộc.Năm nớ, bác Hai đã ngoài  chín mươi tuổi. Hoàng Lộc lại ở bên kia trời xa vời vợi.” Thưa bác, con mới về” – Nghe tiếng tôi, bác Hai gọi   “Hoàng Quy đó hả ? Tôi ôm bác trong niềm xúc động. Đã hai mươi năm không găp,bác vẫn nhận ra tôi. Để tô mì xuống bàn. Bác nắm lấy tay tôi, Bác khóc. Những giọt nước mắt tuổi già nhỏ xuống lả chả trên tô mì đang ăn dở dang.

Đêm ấy, tôi lang thang trên những đường phố Hội An.Ngọn gió bắc vẫn còn se sắt tâm can. Đêm Hôi An buồn và nhớ nhung như người thất thổ. Tôi đứng trước chùa Phước Kiến rất lâu giống một kẻ thất tình. Chốn cũ ngày xưa hiện về trong đêm côi cút. Chùa Phước Kiến, đình Ông Voi là những nơi Cái bang chúng tôi thường hay tụ tập để chơi đàn, ngâm thơ và tếu. Chẳng đứa nào có tiền. Nhiều đêm ngủ đói trươc hiên chùa. Đêm ầy mưa giông, Thái tú Hạp, Trương Duy  Mãnh và tôi chui vào phòng hậu liêu bên hông trái  chùa Phươc Kiến ngủ. Năm ấy, ba đứa đều thi hỏng tú tài, tuổi quân dịch lại gần kề. Buồn chán , hút thuốc suốt đêm. Tám giờ sáng, ba đứa đi uống cà phê gần trưa mới về. Căn phòng hậu liêu, chúng tôi ngủ đêm qua đã cháy. Cho đến giờ nầy,50 năm sau, có ai biết đêm ấy, Trương Duy Mãnh búng tàn thuốc lá ra cửa sổ, tàn thuốc rơi vào khe gỗ nức, lưả ngún dần rồi bốc cháy, may mà…

Chùa Phước Kiến, ngày nay là một điểm đến của khách du lịch    phố cỗ. Khách Tây tàu tấp nập. Duy Mãnh cũng đã trở về chốn cũ,  nơi cõi vĩnh hằng. Cái Bang còn ai gỏ gậy tan tát khắp bốn phương trời. Mai kia, nhớ quay về chốn cũ dốc cạn  hồ trường.

Hoàng Quy
Nguồn: Tác giả gửi

Đã đóng bình luận.