Cảnh Cửu
Buổi sáng tôi ra ga một mình, chị tôi nói để đưa tôi ra ga nhưng tôi không muốn. Tôi sợ chị lại lẽo đẽo: Em về sớm làm gì, dạy cũng mồng chín mồng mười, nán lại chơi vài ngày chị sẽ về cùng thể. Đây là thành phố của chị. Chị đã lớn lên và yêu anh Gi bên những khung cảnh ấy. Nó trở thành đậm đà trong ký ức của chị. Nhưng những năm lấy chồng theo anh Gi ra Qui-Nhơn chị quên lửng. Có em – em là em gái anh Gi – trong một dịp xuân về không thể giúp chị được gì ư. Thật tôi muốn nghẹn. Tôi mà đi giúp chị Gi. Chị Gi với tuổi thơ đầy ắp đáng nhớ. Còn tôi, tôi chỉ là những ngọn đồi khổ đau, những con đường đầy bụi (như anh đã biết). Chính anh Gi cũng không chịu được. Anh Gi đã xin đổi đi. Qui-Nhơn một miền đất lạ hợp với sự dựng xây mới. Anh Gi chưa bao giờ nghĩ lui về sinh quán. Tôi – em gái anh Gi – có nghĩa gì mà gần anh Gi được vậy mà chị Gi lại nghĩ đến tôi. Chị Gi nghĩ đến tôi trên thành phố của chị (là thành phố chết đối với tôi). Tôi thật tủi hổ vô cùng. Tôi đã khóc vùi khi rời ga Nha Trang. Nhiều người nhìn tôi kinh ngạc: bỗng dưng ôm mặt khóc một mình. Có người với tính điềm đạm đảo mắt tìm một sự liên hệ của cuộc chia ly. Nhưng tịnh không một ai: không một đôi mắt nhìn theo. Không một chiếc tay đưa lên vẫy. Cũng không cả một lời thì thầm. Chỉ mốc meo trên tiền diện nhà ga. Những người có phận sự sửa soạn cho tàu chạy thì lảng vào công việc. Họ như cố cho xong để còn về tìm lại dư vị ngày Tết ở gia đình.
Và rồi tiếng tàu thở hắt. Người xếp lất phất tấm cờ hiệu đỏ chúi thấp. Tàu ra đi. Sự dọ hỏi không thành hình. Chút băn khoăn như lớp sóng nhỏ trên đại dương sâu. Những tiếng rung chỉ thoảng trên đường sỏi. Những người kia vẫn đứng xa ngỡ ngàng ái ngại. Họ xa lạ như những giọt nước mắt của tôi xa lạ với cuộc đời. Tôi không thể nào gần lại với chị Gi. Tôi có đứng lại bên Cầu Xóm Bóng, tôi cố gắng đến Hòn Chồng rồi tôi cũng không làm gì được. Tôi chỉ khơi lại sự tủi thân của tôi. Thôi thà bỏ đi cho sớm. Đi thế nào cũng được. Đi để rứt bỏ. Đi để thấy mình di động. Đừng tiễn đưa làm chi. Tiễn đưa thêm bận bịu. “Em sợ không giữ được nước mắt. Em không muốn rời Nha-Trang mà lại khóc. Em muốn lên tàu cười chào hẹn tái ngộ thành phố đẹp của chị – đẹp như tuổi thơ của chị đó chị Gi”. Tôi đã nói với chị tôi những lời đó. Tôi phải nói thật thành khẩn. Chị Gi cười nửa miệng buông lỏng tay tôi. Tôi thoát ra khỏi cổng nhẹ người. Tôi như vừa xuất hết mớ mồ hôi nặng (hay ít ra cũng đổi một vùng khí áp). Ngọn gió đầu năm ào tới làm tôi lảo đảo. Tôi rùng mình trong làn da xanh xao. Nhưng như thế tôi đã thoát nợ.
Chiếc xích lô băng qua con đường đầy lá me. Gió sớm ào táp tới mặt. Sự lạnh luồn vào tóc và xoáy cuộn ở phía ót. Tôi nhăn nhúm đùn vào nếp áo. Trời tháng giêng hay là trời mùa đông. Tôi cũng không cần biết nữa. Có vui chi mà mình phải định mùa. Tôi chỉ biết mình bềnh bồng trong một trạng thái tê điếng. Tôi không nhận biết mình đau ở đâu.
Nhà ga buổi sớm còn ẩm ướt. Những chuyến tàu đầu năm ra miền ngoài thưa khách. Cái miền nghèo khó đó làm gì nuôi được đám người mỗi ngày một đông. Họ phải lần tìm sự sống trong miền Nam – nơi mà tôi nghe ruộng lúa phì nhiêu và thành thị nối tiếp. Chỉ những dịp Tết họ tìm về nơi sinh trưởng: tảo lại ngôi mộ xưa (mà cỏ gừng cỏ tranh đã lấp kín) hay thắp một nén hương một ngọn đèn dầu vàng lụn rầu rĩ trầm ngâm. Rồi khoảng thời gian phút chốc lại trôi đi. Họ hối hả rời ngọn đồi trọc cánh đồng khô mà chen lấn trên con tàu vô để mong tìm lại cái sống. Chả mấy ai nghĩ đến những chuyến tàu ra. Chỉ những người mắc kẹt như tôi – những người quanh năm suốt tháng không biết hy vọng gì đành ôm khổ đau như một số mệnh.
Con tàu số mệnh đã khởi hành. Như thế ước muốn rời Nha-Trang càng sớm càng hay đã đạt được. Sao tôi lại phải khóc. Lúc này chắc tôi không khóc vì mình không có chỗ đứng bên anh chị Gi. Vì dù sao Tuy-Hòa vẫn là phần đất cả anh chị Gi đều bỏ lại. Tôi sẽ là người thừa hưởng. Nỗi mừng vui thừa tự và ước muốn trở về đáng lẽ là niềm vui tung vỡ trong tôi. Sao tôi lại phải khóc. Chắc những người đứng kia nghĩ là tôi đang lưu luyến thành phố mà mình phải ra đi. Không, Nha-Trang vẫn là thành phố chết.
Buổi chiều đó mặt trời đã sụp hẳn bên kia dãy Trường-Sơn. Bên này – vùng thung lũng phía Đông – cũng chìm trong thứ ánh sáng quờ quạng. Chuyến xe đường trường mệt mỏi chui qua khoảng hầm dưới chân Đèo Rù-Rì. Hai trăm hai mươi cây số đã qua. Nha-Trang sắp đến. Tôi vùng dậy trong một trạng thái tỉnh táo: Tôi phải đón Nha-Trang với bất kể giá nào. Tôi đã háo hức nhận lời chị tôi khi chị ngoài Qui-Nhơn vào – thăm thoáng qua Tuy-Hòa một buổi – rồi đề nghị em nên đi Nha-Trang chơi. Nha-Trang: Còn gì tốt đẹp cho bằng – nhất là lúc này. Nha-Trang trở thành nỗi rung động phát khởi từ cơ thể mình. Tôi hồi hộp theo từng bước đi theo từng quyết định trong công việc nhỏ vô nghĩa hằng ngày. Tôi đã bước tới bước lui xiêu vẹo trong gian phòng. Tôi cố giấu để không nói cho chị Gi hay nỗi mừng vui của tôi. Chi Gi – chị rủ em đi Nha-Trang chuyến này rất hợp lúc. Chị có phải là người đào mạch khơi nguồn cho người khác không. Nguồn vui của tôi đang chảy đang phụt tràn dưới một tốc lực mãnh liệt. Tôi cố dùng hữu thức để giới hạn bớt. Nhưng bất trị. Nó ào ào tự chảy tuôn tràn từ nơi sâu kín nào trong người tôi. Tôi không ý thức được. Tôi không dò hỏi được. Những hành động tôi chỉ còn là phản xạ. Từ lờ mờ tìm một sự liên kết. Nhưng chung quy vẫn là chuyến đi Nha-Trang – nó trùng vào ngày anh vô Sài-Gòn.
(Tôi đã nhận ra anh trên tàu. Anh cũng ngạc nhiên khi trông thấy tôi. Chắc anh không ngờ tôi có thể đi được vào một miền trong. Anh hấp tấp sắp sửa chạy lại. Nhưng tôi ra dấu cho anh dừng kịp. Đừng đừng. Như thế chị sẽ biết. Sẽ rầy la. Sẽ rắc rối. Anh cũng đừng oán trách chị vì chị có quyền thương em gái chị cũng như anh trong đời sống thường thương lấy thân xác anh. Bất kể một phiêu lưu mới nào cũng làm e dè lo ngại. Tôi chỉ tiếc là từ đó nỗi cách ngăn được gây nên. Tôi thấy hoàn toàn lẻ loi đơn độc.
Con tàu chạy qua Vũng Rô. Biển dưới màu xanh biếc phẳng lặng như bản thủy tinh chỉ phản chiếu ánh mặt trời. Nó yên quá đắm đuối quá. Nhưng mắt tôi không phản chiếu được gì. Tôi chỉ thấy khoảng cách giữa anh và tôi càng ngày càng lớn. Tôi cố dùng hai con mắt nói lên chút yêu thương. Nhưng hai con mắt chỉ dõi trông và khô cứng như đôi mắt đã hóa đá như người mẹ bồng con đứng choi loi giữa Vũng, năm tháng nhìn ra biển khơi chờ đợi mỏi mòn mà không biết thời gian đi nhanh trên vai trên tóc. Tôi cũng ngồi đây mặc cho con tàu lôi tôi vào muôn vàn nhớ thương. Sao anh không xa hơn một tầm tay mà tôi bắt được. Sao anh không đọc hết niềm yêu thương trong ánh mắt tôi. Tôi yêu anh yêu biết nhường nào như quê hương yêu mê mệt mà anh lừng khừng ngớ ngẩn. Nơi ruộng lúa bao la miền Nam nào đó đã làm anh quên đi đập đồng khô cằn ở đây chăng. Hay nỗi cách ngăn này đã làm anh phân vân thắc mắc biết đâu là thật đâu là hư. Thời đại chúng ta chỉ có nỗi khốn cùng. Thù hằn nhỏ mọn đã được khơi lên thành quốc sách chủ nghĩa. Trong phút giây này anh không còn lại tình thương? Anh hãy cúi nhìn lại tôi đi – mướt xanh như những đám dương vùng Đại-Lãnh. Quê hương có chút duyên dáng chỉ trong những ngày tàn tạ: phải rồi đó là sự nhầm lẫn của tôi. Tôi phát khóc như mưa chiều về với núi Vọng phu).
Bây giờ thì hai trăm hai mươi cây số đã vượt qua. Càng cùng chung tôi lại thấy càng đơn độc. Không có cách gì mình gần gụi được. Càng cố gắng trí óc tôi càng nhụt bại. Và sự mủi lòng từ đó ập xuống cơn mưa chiều. Những giọt nước càng dài trong bầu trời vàng hoe phủ lên những tảng đá đầy rêu và đập trên lưng tàu. Tôi mù mịt không biết cơn mưa đổ bao lâu. Con tàu đã lầm lũi chạy trốn như thế nào mà đã vượt được. Thời gian và không gian mường tượng ở sau lưng tôi không cần biết nữa. Tôi chỉ biết trước mặt tôi là Nha-Trang. Ít ra thì mút chót tôi đến đó.
Tôi theo chị chen lấn trong đám đông người. Tôi an tâm khỏa lấp như những con dã tràng bị chộ dưới lớp sóng biển. Không được gần gụi thôi ước muốn làm gì. Ước muốn chi cho uổng công. Những giọt nước mắt đó tôi cho là hời hợt. Nó có chảy ra hay không chảy cũng không ăn nhậu gì. Số mệnh đã như thế. Tôi thấy mình đã dại. Bây giờ là lúc tôi phải thương lấy mình. Tự thương là một bí mật mới khám phá cho mình được khỏa lấp. Nhưng tôi thật ngạc nhiên thấy anh cũng xuống Nha-Trang. Suýt nữa tôi buông tay đánh rơi chiếc giỏ của chị. Nỗi hốt hoảng nào đã làm mình khốn đốn. Anh xuống đây hay anh đi đâu đó chỉ là phần việc của anh. Mỗi người khỏa mình trong một cử động. Cử động của anh khác cử động của tôi nào có liên hệ gì. Tôi cố trấn tĩnh đừng cho tình cảm thành hời hợt. Nhưng thật chưa lúc nào tôi lúng túng bằng: anh đã áp tới nhét vào tay tôi mảnh giấy con. May là chị tôi không để ý. Còn muốn nói gì nữa. Như thế tôi đã quá nhọc nhằn anh chưa hả sao. Anh còn có ý viết giấy đưa tận tay tôi giằng giật nữa cho hả. Tôi không muốn phải chịu đựng thêm một cái gì. Hai mươi mấy tuổi – hai mươi mấy năm – bây giờ tôi không muốn chịu thêm một cái gì nữa cả.
Tôi ra xe. Con đường Gia-Long với hai hàng me thẳng tắp trước cổng nhà thờ. Tôi không thể nói gì nhắn gì. Hàng me thì những lá nhỏ. Nhà thờ thì tháp chuông cao. Con đường này thì sẽ dẫn đến đâu. Tôi chưa gặp chưa biết. Tôi chưa thể quyết định gì. Đừng bắt tôi phải phập phồng. Chị tôi sẽ giận.
Quả thật lúc đó tôi muốn được yên ổn. Vì tôi tưởng rồi anh sẽ xa. Con tàu ngon trớn kéo anh vào miền nào mà tôi không hề tưởng biết tới. Suốt đời tôi sẽ không biết tới. Anh dừng lại tới đấy trên cái thành phố đầy lá me – đây chỉ là đùa cợt? Có lẽ một phút bốc đồng mà nên chuyện. Tôi không thể làm thêm một chuyến phiêu lưu. Tôi đành thu mình để mong được yên ổn. Mong sao sống trong cái nhỏ nhoi mình có thể có. Nhưng anh đã đợi chờ. (Sương khuya đã thấm ướt áo. Gió đầu năm còn mang giá rét của mùa đông. Và biển thì vẫn rào rào đổ vào lòng những âm thanh muốn khóc). Tôi hiểu cuộc đợi chờ nào cũng đem đến nhiều bứt rứt. Cuộc đợi chờ này cuối cùng anh không bắt gặp được tôi. Anh bỏ ra đi chắc là với giận hờn. Chắc là lòng nhiều ấm ức. Nhưng biết sao.
Tôi cũng chả hơn gì anh. Về đến nhà chị mệt mỏi rã rời. Gió bụi đường trường còn ngầy ngật suốt cả đêm. Trong gian nhà mới lời chị như những tiếng mõ khua vọng gác. Những lá dương thì thào phía ngoài như lời anh còn nhắc, nhưng khung trời đêm cản lối cách chia rồi. Tôi trăn qua trở lại nghe nỗi buồn phát mệt.
Sáng ra tôi mới biết anh đã đi rồi. Nghĩ lại mấy giờ chả có ích chi. Tôi bần thần bắt đầu cuộc đi dạo. (Cầu Đá bên kia núi cao chót vót làm biển bên này sâu thăm thẳm. Hai sự cách biệt khá xa như tôi và anh đấy. Tôi đứng bên những hòn đá cồn con có nước lấp lém bao quanh và nhìn những cọng rêu những con cá bé li ti xanh đỏ bơi qua bơi lại trong khe. Mặt nước của vịnh biếng nhác để biển mở rộng ra đại dương. Cầu tàu thì trườn dài từ đất liền chúi mũi xuống nước sâu. Trên trời những cụm mây trắng trôi lang bạt. Tất cả đều không nghĩ đến tôi. Tôi thấy cô đơn giữa biển sâu núi cao và mây trời cách biệt. Lúc này anh cũng đang đi đó phải không. Anh đã thật sự cách biệt rồi.
Tôi trở về lòng không muốn không ham như hồi ở Tuy-Hòa. Tôi cố ngủ để bù đêm qua đã thức. Nhưng mới ba giờ con bé đã dậy đòi đi dạo. Tôi ra bãi biển gần. Gió buổi chiều làm lá khô cuốn lăn. Những đợt sóng ra vào liếm ướt viền cát xóa đi công trình của những con dã tràng. Những bước chân người in lên cát. Vài con còng xanh đỏ như những nhân vật tuồng Tàu xiêm y rực rỡ rụt rè ở cửa hang. Người ta nhởn nhơ nhiều quá làm chúng sợ hay người ta tươi trẻ quá làm chúng thấy già nua ngượng nghịu. Tôi chỉ ngồi thu mình với con cháu bé đầu óc rỗng không. Ý thức gần loãng theo sóng nước ra khơi. Tôi bây giờ như căn nhà trống không còn tích tụ được ý nghĩ nào.
Rồi ngày đó qua một ngày khác lại trở lại. Hương khói mùa xuân còn nghi ngút ở Tháp Bà. Tôi đứng trên những bậc cấp nhìn xuống Cầu Xóm Bóng cong cong, nước dưới cầu lặng lờ. Bao nhiêu thời gian đã trôi chảy tôi không hề biết. Thấy tôi đứng lặng chị tôi rủ sang Hòn Chồng. Tự dưng tôi thấy rùng mình. Tôi mỏi mệt quá chừng. Tôi không muốn đi thêm tới đâu nữa cả. Tôi muốn xuống an nghỉ nơi chiếc cầu và nước sông kia; mặc cho mùa xuân đưa đẩy mình lùi vào bóng tối.
Tôi đã bỏ thành phố chết đó sau hai ngày. Biết bao nhiêu buồn thương ấm ức chất chứa. Nhưng tôi chả dám nói gì (nói với ai). Tôi thu lại trong đời sống chật hẹp vô nghĩa đợi tháng ngày phủi đi. Tôi chắc cái gì cũng sẽ qua. Sự buồn phiền chỉ làm tê điếng một lúc rồi thôi. Như hai làn sóng cùng tần số va chạm nhau gây nên sự lặng. Sau đó mỗi cái tự do chuyển mình. Rồi sẽ quên hết. Nhất là anh: Trời Sài-gòn có thứ khí hậu khác. Sống trong môi trường đó chắc anh cũng dễ vơi đi nhiều. Tôi ngoài này cũng ráng quên đi cái biến động chót đó ở Nha-Trang. Tôi không muốn nhớ hai ngày lưu lại. Tôi đã cố xóa ký ức. Tôi bấy giờ chắc đã xa. Con tàu đã mang tôi ra miền ngoài. Làng dừa chi chít ở Ngọc-Hội. Những ngọn đồi La-san ở phía Bắc thành phố thật khuất khi con tàu đã chui qua Đèo Rù-Rì. Một thứ khí hậu khác đã hiện ra. Tôi nhìn ngắm qua con mắt như một nỗi ngặt nghèo mình phải gặp. Anh có thấy bao giờ những cành khô trong mùa xuân. Những nhánh gòn xương xẩu mang vài quả lơ thơ đứng trơ trọi giữa đồng như những cánh tay đưa ngang như muốn bắt nắm một cái gì. Tôi không nghĩ là chúng đang nuôi ảo vọng. Nhưng đó là sự hiện hữu của Ninh-Hòa – một miền khô hạn quanh năm. Những đá hoa cương lâu đời thái hòa thành thứ đất xám chỉ giàu có cát. Biển thì thầm thật xa. Phần lục địa này thường xuyên mang sắc thái một sa mạc. Cỏ ít mọc. Những con trâu lòi xương đứng cứ nghinh mỏ lên trời nhìn sự già nua tới cho rục ngã. Gió giữa buổi táp vào mặt nóng bỏng chiếc khăn tay trở thành quá nhỏ không che lấp hết một khoảng má. Tôi ngoi ngóp trong cái ngầy ngật của con tàu qua đường trường và gió nắng. Tiếng tàu thở từ đầu máy. Hơi nước bốc nóng ở nồi súp-de. Những bánh sắt lăn trên đường rầy khô khan mệt mỏi chẳng khác gì rừng cây khô mùa xuân đã bay mất chỉ còn lại cành khẳng khiu đất trơ trụi.
Con tàu dừng lại ở Vạn-Giã lấy nước và nhường lối cho chuyến tàu vô. Hai khoảng đường rầy tránh nhau rung lên hối hấp. Nơi chiếc tàu kia những thân người chất đầy các gon và bu đặc ở các hành lang, chỗ lên xuống như những con ong ruồi bu quanh ổ. Khác hẳn với chuyến tàu của tôi chỉ lơ thơ những người buổi trưa đã lẩn khuất nằm bẹp trên những chiếc băng gỗ mãi phía trong. Tôi một mình ngồi nhìn qua cửa sổ. Nắng vẫn chói hắt trên con đường sắt chạy ngút ngàn diêm rỉ. Vùng không khí xa trên các gò trọc rung động lao xao như ngọn lửa đang thiêu đốt bay tới lòa hai con mắt. Trên sân ga những người bán hàng rong cũng đang lảo đảo: Tiếng rao hàng mời gọi năn nỉ rè bể vào ánh nắng. Những cánh tay khô nâng cao mớ đồ để thấy tả tơi thân thể trong lớp áo quần rách bẩn. Những khúc bánh mì ly nước é bánh in bột gạo trở nên đã thèm với cơn đói của khách dù lên cao. Những người trên tàu chong nhìn bần thần hay hốt hoảng: xứ sở mình đang hiện hữu hay huyền thoại nào ở xa mang đến đây một nỗi khốn cùng đang bêu rếu. Con tàu vô sợ hãi thét còi vội bỏ đi. Còn lại con tàu của tôi. Không thể nằm mãi với cái nhức mắt của buổi trưa nó lấy tàn sức chồm lên tiếp tục hành trình ra miền nghèo khó. Tôi ngồi im ôm chiếc xách nhỏ trong lòng. Trí óc hụp xuống một sự nặng nhọc vô cùng. Chị Gi hay anh bây giờ ở thật xa. Con tàu cứ miệt mài mang tôi xa nữa. Từng bước rung rinh hì hục mang sự ngồi im của tôi bay vào sự tuyệt vọng. Dù tôi không muốn – lúc này có la hét cũng vô ích – sự nặng đã đến trên quê hương và đời sống bé nhỏ của tôi.
Lúc con tàu đi ngang Vũng Rô thì tôi hoảng hốt. Như thế Tuy-Hòa sẽ sắp đến (tôi giẫm lên lằn mức khổ đau). Như thế Nha-Trang đã tuyệt xa. Nha-Trang lúc này không còn là thành phố chết nữa mà là sự hẹn hò gấp gáp sự níu kéo tôi đã bỏ quên. Trong bao nhiêu năm dịp ấy mới có một lần mà đã trật nhịp. Tôi trở nên chưng hửng vô duyên lạ kỳ. Sao tôi không ở nán lại đợi chờ. Hồi đó sao tôi không bạo dạn bỏ đi với anh. Đêm hôm về gõ cửa căn nhà lạ mới thú. Chị tôi sẽ rầy la. Nhưng chả sao. Việc gì đến thì nó đến cấm làm sao được. Việc gì lại dại dột nằm nghe tiếng mõ đều đều của chị tôi vang vọng ở tháp gác một đồn lính Bảo-an mà tiếc nhớ những lá dương reo ngoài trời.
“Da thịt em nóng bỏng một đêm đậm hơi sương và mùi lá nõn. Đêm bốc cao bức xạ mặt trời của ngày còn lại. Giá lạnh của lớp khí trời mất nhiệt và hơi thở của rừng cây mới lớn. Em man dã trong tuổi đời ngơ ngác. Gặp anh trên bước đường phiêu bạt tuổi trẻ xối xả lăn tròn. Liều cho nhau những đam mê lớn nhất. Rồi đêm tàn ngày tới. Mặt trời réo cao sự nhục nhã của loạn luân. Lúc đó anh hãy xấu hổ bỏ đi. Còn em ngu dại đứng lại chờ; mặc cho thời gian đẩy mình vào quá vãng”. Tôi ngâm nga muốn đọc cho cổ khỏi đắng cho tiếc nhớ khỏi trở về cho Nha-Trang khỏi cách biệt như hòn đá mẹ bồng con đã cách biệt hẳn với sự sống. Tôi bây giờ với niềm ăn năn. Nỗi tiếc nhớ không thành hình cách ngăn không có mà như thiệt. Tâm can tôi mỗi lúc một khô hẳn. Tôi gục mặt để khỏi thấy ga Tuy-Hòa như một điều nhục nhã không thể tránh.
Cảnh Cửu
(Văn số 79, ngày 1.4.1967)
Nguồn: Nguyễn Lệ Uyên gửi



















