Hồ Đình Nghiêm
Bốn chữ trên nhằm nói tới một sự mất mát. Trao tiền cho đứa bất lương để hắn lặn sâu quỵt nợ, khi rõ chuyện khổ chủ chỉ biết dậm cẳng kêu trời: Rứa thì coi như tao lỡ đưa con vô nội rồi!
Nội đây có thể là Đại Nội. Đưa con vô có thể là để tiến cử cho con có được cái job an nhàn khi hầu hạ đấng bề trên, vua chúa hoàng tộc. Con có thể là gái, cung tần mỹ nữ. Con có thể là trai, cắt của quý đặng làm thái giám. Có thể, vì mình chẳng rành rẽ, chỉ đoán chừng khi có bạn ở phương xa mang bốn chữ ấy ra cật vấn: Vì sao lại đưa con vô nội? Nó có trở ra lại không?
Dạo đó, hình như trên báo Phổ Thông của Nguyễn Vỹ có người đưa ra một câu đầu, thách bá tánh đối lại cho hoàn chỉnh, mình nhớ hầu như không một ai làm nguôi ngoai vấn nạn. “Không vô trong nội nhớ hoài”. Đề bài toán chỉ sáu chữ, hóc búa nằm ở chỗ tuy là sáu nhưng kỳ thực nó cô lại chỉ còn ba. Bởi lẽ không là vô, trong là nội, nhớ là hoài. Rắc rối ở khoảng ấy, hừ Hán với Nôm!
Vô trong nội, mình thường dùng cổng Hiển Nhơn. Tương truyền, ở cung cấm lâu năm, kẻ nào bước ra khỏi cổng ấy thì xem như đã thành người. Hiển Nhơn là vinh hiển thành người, có đúng chăng? Không thành danh cũng thành nhân. Xuân Mậu Thân năm 1968, thành quách triều Nguyễn hứng chịu sự trải nghiệm của sức công phá mọi thứ vũ khí siêu khủng mang nhãn US hoặc Nga, hoặc Tàu. Hiển Nhơn là một thằng người cụt đầu rơi rụng gạch đá, hoang phế chứng thực và tiếp nhận thêm vô số những hồn oan, mới tinh khôi. Huế không mưa cả tháng, nhưng những khuôn mặt đẫm lệ thì mãi ướt với lạc thần, với niềm đau dài lâu hơn ba mươi ngày nặng mùi tử khí.
Ở Huế, đang đi có khi bất chợt bạn cảm thấy một cái gì đó, mong manh tựa hơi gió thoáng qua, mát lạnh trên da thịt để trần, bạn đừng ngạc nhiên, ấy là do bởi nhãn tuyến đời thường khiến bạn không tránh được những bộ hành ở cõi âm. Va vấp vào họ, đụng phải họ để tùy nhân duyên mỗi số phần, có người về chong đèn làm thơ quên ăn quên ngủ, có người đứng yên trước ngõ nhà tình nhân thầm lặng trồng cây si dưới vũ lượng rầm rộ ăn chơi không sợ mưa rơi, có người lên chùa xuống tóc, có người cứ khóc nấc rồi lại rộ ra tràng cười, có người đi giữa chợ miệng mãi lầm bầm câu kinh sai lạc, có người vô trong nội tìm lùm cây bụi cỏ ẩn mình rồi tu nguyên chai thuốc trừ sâu mắt trợn môi trề giã từ cõi thế. (Tình cảnh này có vô mà không trở ra, hoặc vô với trái tim đập vội mà ra thì lạnh ngắt tứ chi chẳng hay mây vẫn dạt bay thường hằng trên cõi đời bạc bẽo).
Mình vô ra cổng Hiển Nhơn ngày một vì trường Mỹ Thuật mình theo học nằm trong khuôn viên Đại Nội, láng giềng nó là trường Quốc Gia Âm Nhạc không mấy đông học viên. Cây cao bóng cả, tường rêu trầm mặc làm biên giới, nhưng thỉnh thoảng ngôi trường kín cổng kia vẫn độ lượng gửi sang tiếng piano thánh thót những cung bậc quý phái. Tiếng kèn đồng saxo sắc buốt những tâm sự, trôi trên hàng cây sầu đông với những nụ hoa tím nở câm trong chiều vàng. Lạ kỳ một điều là giữa hai ngôi trường chưa hề nảy sinh ra một mối tình nào cả. Mình nói kỳ lạ bởi lẽ hơn ai hết chúng có đủ những yếu tố để tác thành một “tác phẩm”. Kề cận nhau, địa lợi. Cùng theo đuổi nghệ thuật, nhân hòa. Vậy thì thiên thời? Nó là điều khuất mặt nào? Một anh họa sĩ mà kết hôn với một chị nhạc sĩ. Họ hạnh phúc không? Mình không rõ, nhưng tiên quyết, dễ thấy nhất là họ sẽ phải uống nước lạnh để thoi thóp mơ về một cái gì xa tầm tay với. Đâu cũng vậy, không riêng Huế cổ kính, giai cấp nghệ sĩ là thứ khó bề thu phục nhân tâm của quý vị “phụ huynh học sinh”. Mình tới nhà cô bạn học trường Đồng Khánh, trăm khi như một phải chịu cực hình đón nhận những cái nhìn “nửa con mắt”. Tóc để dài, tướng tá bụi bặm ba gai, rứa hắn là con nhà ai rứa bây? Mình rất oải với vụ việc xem mặt mà bắt hình dong kia nên buộc phải chia tay tình đầu với lá thư cụt ngắn: Em nhớ cho, anh là đứa bất tài và trong tình yêu, điều khiến hắn hãi nhất là đóng tròn vai trò khổ nhục kế.
Có lẽ chính mình sẽ phải làm một cuộc cách mạng. Mình tiên phuông đi thử nghiệm để đánh tan nghi vấn: Sao giũa hai ngôi trường kề cận lại không chớm nở được một cuộc tình gái trai? Khi cất công dọn lòng theo đuổi chùng vụng với Dung mình có hơi thất vọng bởi Dung đang trau dồi ở bộ môn cổ nhạc. Đàn tranh đàn bầu đàn kìm đàn cò cho tới thập loại các nhạc cụ mỗi một cất tiếng là mỗi khơi lên một cung bậc thương tâm. Mình hơi vọng ngoại, giá mà Dung học guitar hoặc dương cầm để mường tượng ra những kỳ ảo do mười ngón tay nuột nà kia tạo nên những lượng sóng réo rắc e sướng cái lỗ tai hơn. Mà ngay cả ngoại hình Dung, ở cô là nơi tập trung tất cả nét cổ kính. À la mode chẳng thể hiện diện nơi vẻ đi khép nép kia. Chiếc áo dài ấy, mái tóc mượt mà tựa dòng sông thậm thượt chảy trôi và nón lá quai lụa là một tổng thể phù hợp nếu đặt để vào trong bức tranh lụa đầy sương khói. Dung như đại diện cho sự ẩn mật, bước xuống đời từ một cấm cung lầu son gác tía hoang đường xa khuất. Rất tiếc mình chẳng theo ban lụa và tình ngay, Dung sẽ chối từ nếu nghe lời đề nghị của mình. Tin là Dung dứt khoát chẳng chịu ngồi làm mẫu cho mắt mình chăm bẳm ngắm nghía.
Bạn mình có nhiều đứa nhà ở xa nên buổi trưa thường ở lại trường. Chương trình học thường sắp xếp thế này: Tất cả những buổi sáng đều là giờ hình họa, vẽ người mẫu, từ chì, than, màu nước, bột màu đến tận cùng là được vọc sơn dầu. Buổi chiều học trang trí, định luật viễn cận, kết hợp những bản vẽ gần như của ban kiến trúc. Học thêm anatomie, lịch sử Mỹ thuật, Anh hoặc Pháp ngữ để có căn bản tra cứu sách ngoại ngữ. Hoặc đi xa vẽ phong cảnh. Những đứa ở lại ban trưa tất thảy thường la toáng về những hiện tượng lạ xảy ra. Ngồi ngoài hành lang nghe tiếng lục đục của những giá vẽ thay đổi vị trí ở trong căn phòng đã khóa cửa. Bày bài trang trí ra mong hoàn tất sớm thì phát hiện có những vệt màu còn ướt lấm lem. Mất một hai tuýp màu, mất cây thước hình chữ T. Hộp đựng thức ăn bị vơi phân nửa… Có cô học ban lụa thì mãi rấm rức, han hỏi miết mới ái ngại tiết lộ, ngực mình đau như thể có ai đưa tay… bóp. Ngồi mình ên, ngó lui ngó tới tịnh không ai, chỉ thấy lạnh cẳng. Mặt xanh như tàu lá.
Nói chung là trường có ma. Kỳ lạ là chẳng một ai hoảng, xem như chuyện chẳng có gì để làm rùm beng, chỉ bợn lòng, răng mà lộng rứa hè, ban ngày ban mặt mà, có phải tối tăm khuya khoắt gì cho cam! Và tối trời, từ ngoài đường Đinh Bộ Lĩnh xanh mướt ánh điện néon để vào tới cổng Hiển Nhơn là khúc đường Đinh Công Tráng luôn thu giữ bóng tối quánh đặc. Con lộ ngắn khoảng năm trăm thước ban ngày nhưng dài miên man giữa canh khuya. Phải băng qua một công viên nằm sánh đôi luôn xào xạc thứ ngôn ngữ riêng của lá chờn vờn máy động, những con đom đóm chợt sáng chợt tối thắp vào đêm chút hư ảo, lãng vãng lời cảnh báo đi đêm hoài sẽ có ngày gặp ma. Bình mực xạ từ công viên sẽ trút đậm đặc sang bên khu láng giềng Nguyễn Phước Tộc. Nơi ban ngày có cà phê Tôn luôn đông khách, nhưng đêm về cảnh sắc có sức mạnh xua đuổi những kẻ bạo gan tẩu vi thượng sách. Có đứa sinh viên gốc Quảng Nam thuê căn phòng nhỏ khuất sau từ đường làm nơi thường trú mặt luôn thành khẩn khi khai báo, thi thoảng vẫn thấy một o dáng dấp nhỏ bé kiểu chớm dậy thì vẫn ưa ngồi thu lu tận trên đọt cây bàng án một bên cổng. O chỉ ngồi vắt vẻo thế thôi tịnh không nói không hát không hò không khóc không kể lể, có điều o mặc áo dài trắng và khuôn mặt o… Ngang đó thì ôn người Quảng Nam á khẩu, chẳng cạy miệng được. Tuồng như đương sự thiếu chữ để diễn đạt, hoặc nếu nói ra điều bí mật kia thì đương sự hết đường vô lại xứ Quảng ngăn sông cách núi. Sống để bụng chết mang theo. Học trò trong Quảng ra chơi, thấy cô gái Huế ruột gan tơi bời!
Năm nọ, trường có mời được điêu khắc gia Lê Thành Nhơn từ Sài-gòn ra dạy. Dáng người cao to, tóc uốn cong từng lọn dài, da ngăm đen, mặt mày phong trần như thể vừa hạ sơn từ Lương Sơn Bạc. Nói chung, tuy chẳng học ban điêu khắc nhưng mình bị nét giang hồ lãng tử của thầy lôi cuốn, cảm tình. Khi ấy, thầy Lê Thành Nhơn bắt tay vào làm tượng cụ Phan Bội Châu, (tác phẩm đồ sộ mà thợ đúc đồng từ Phường đúc vào lượng định đã phải mang hương đèn theo để nghiêm cẩn cúng vái, sợ bị quở phạt khiến công trình chịu hư hỏng nửa chừng). Khi thao tác trước núi đất sét cao quá đầu, Lê Thành Nhơn đã sử dụng cây đao dài của lính Mỹ khi đi phạt cây khai thông đường rừng. Thầy xẻ ngang chém dọc để tạo hình y như một chưởng môn nhân đang thi triển bí kíp võ công. Xuống tấn, xoạc chân, đao hoa lên, mồ hôi ràn rụa chảy, tất thảy đều phát ra thứ ma lực làm say đắm bọn sinh viên đứng yên như phổng đá.
Buổi tối, Lê Thành Nhơn bắt ghế ngồi thỏng tay trầm mặc trước ụn đất sét vô tri bắt đầu hiển lộ hình khối. Trước khi đi ngủ, thầy sẽ dội nước rồi ủ tấm ny-lông lớn, phủ trùm ngọn núi đất sét kia để khỏi bị khô nứt. Thường thì rất đông anh em các lớp tụ họp mỗi tối trên bãi cỏ quanh phạm vi tác phẩm chưa hoàn thành kia. Một sum vầy không hẹn ước, như muốn bầu bạn cùng nỗi cô đơn của người thầy xa nhà. Như muốn sẻ chia những gian khó mà thầy đang gặp phải khi ra công dựng tượng. Những bóng điện vàng nối dây thắp lửng lơ xua tan vũng đêm luôn thường trú giữa thứ không gian quạnh vắng. Gió ru ơ hờ từng mảng lá cây kết nối chao nghiêng. Một đôi kẻ mang guitar ra hát những bài đồng dao chắp vá: tay có bằng lòng cho tay nắm lấy, môi có bằng lòng trao một nụ hôn, tim có bằng lòng cho tim ngồi lại… Ca từ hình như của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn? Không khí sắp biến thành một cuộc cắm trại có đốt lửa. Trong khả năng của mỗi thành viên, ai có gì cứ bày ra chung lưng đấu cật vui vầy. Cà-phê, trà nóng, bánh ngọt, trái cây, rượu, thuốc lá, và miên man những tâm sự. Đêm sẽ trôi nhanh qua tiếng cười mãi rót, Đại nội sẽ thức giấc, mộng du bởi huyên náo của bọn người hám vui.
Có tối, mình được ủy thác làm đứa mang nhiệm vụ đi tiếp tế lương thực. Sau khi tom góp một nạm tiền của bằng hữu ngồi quanh, mình phóc lên chiếc PC vọt ra cửa Hiển Nhơn. Khoảng 9 giờ, đâu đó, hy vọng những cửa hàng còn mở cửa bán buôn. Chín giờ mà lối đi đánh lừa canh khuya bằng thứ hun hút thẳm sâu, ánh đèn xe quét vội vào tường thâm rêu và bóng người chợt hiện ở đó khiến mình hối hả bóp thắng tay. Vỡ ra tiếng kêu lạc giọng: Dung. Lẫn trốn ánh đèn, thoắt cái Dung đứng sát bên lưng. Hương hoa sứ từ người Dung dồn đẩy vào khứu giác và lập tức thính giác đón nhận một tiếng khóc, rấm rức, tức tưởi. Không hiểu do đâu động cơ máy nổ ngừng đập, tắt tiếng. Đèn thôi cháy để mê muội ập xuống với môi hôn Dung đánh cắp dưỡng khí buồng phổi mình quờ quạng đập. Trời đất đen kịt, lạnh lẽo rơi giữa mùa hè đang độ chín tới.
Nhiệm vụ bất khả thi. Có đứa nói đùa. Mình ngửi ra mùi dầu khuynh diệp váng vất. Những bóng điện nhòe, biết luân vũ. Anh em đợi bạn lâu không trở lại nên có đứa lên đàng, chính nó là kẻ phát hiện và hô hoán. Mặt xanh quá, bị trúng gió, đúng không? Thái dương co giật, trán mình nóng, nhưng do bởi những cú véo ngắt và thấm chất dầu chống cảm mạo. Dầu gì thì mình đã lai tỉnh nhưng miệng mình thì có ai đã khóa cứng. Mình ngó những chân nhang đã lụn tàn có người cắm bên ụn đất sét, nhìn cây dao to bản của thầy Lê Thành Nhơn găm lên trông như một biểu hiện thế mộ bia. Đầu óc mình nhăn nhàu hệt tấm ny-lông ám nhiều bùn đất. Đêm ấy bầu trời chẳng sáng nổi một vì sao thắp lẻ loi.
Ai đã đưa Dung vô nội? Trong câm lặng, mình tự hứa lòng sẽ bỏ công đi tìm ra mộ phần Dung. Không vô trong nội nhớ hoài, mình cố nặn óc đào bới một đáp án, nhưng bất khả. Tha thứ cho mình, mình đã lỡ xa Huế từ bấy đến nay. Một con ma vất vưởng, mình nói vậy thì có bị quở mắng không?
Hồ Đình Nghiêm
Nguồn: Tác giả gửi truyện và ảnh


















