Đọc Lê Văn Thiện

Posted: 05/06/2014 in Biên Khảo / Phê Bình, Nguyễn Lệ Uyên
Thẻ:

Nguyễn Lệ Uyên

le_van_thien
Nhà văn Lê Văn Thiện thời còn trẻ

Lê Văn Thiện sinh ngày 10 tháng 5 năm 1947 tại thị trấn Giã, Khánh Hòa trong một gia đình nông dân nghèo. Sau khi cha chết vì làm lụng cực nhọc, Thiện phải bỏ học lúc mới xong chương trình trung học đệ nhất cấp tại trường Trung Học Võ Tánh, Nha Trang, vào lính vì không biết một nghề nào để làm lụng đỡ đần mẹ già và em gái. Anh có thời gian 2 năm phục vụ tại Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn 47, SĐ 22 Bộ Binh, đóng tại Phú Yên. Sau khi tốt nghiệp trường SQ Trừ Bị Thủ Đức, Thiện được thuyên chuyển về Trung Đoàn 14 Sư Đoàn 9, tham gia các trận đánh lớn nhỏ ở chiến trường Miền Tây Nam Bộ và Campuchia.

Truyện ngắn đầu tay, Ngoại Lệ, đăng trên Văn số 47 lúc mới 18 tuổi, ra ngày 1.12.1965 dưới tên Văn Lệ Thiên. Sau đó truyện của ông đăng đều đặn trên Văn, Bách Khoa, Trình Bày, Ý Thức…

Đến nay Lê Văn Thiện có 5 tác phẩm được phát hành, đều là truyện ngắn: Một cách buồn phiền, Sao không như ngày xưa, Chuyện đời, Mưa lạ, Quế.

Những năm đóng quân ở Phú Yên, qua giới thiệu của anh Trần Phong Giao, tôi đã tìm đến đơn vị Thiện hành quân giải tỏa thị xã Tuy Hòa sau tết Mậu Thân (đang đóng quân tại Liên Trì, Tx. Tuy Hòa). Chúng tôi nói chuyện gia đình, văn chương, chiến tranh bắt đầu “leo dốc”… Sau đó, thỉnh thoảng Thiện ghé nhà thăm tôi mỗi khi có dịp và rồi thân nhau lúc nào không hay, như anh em, kéo dài mãi tận ngày nay. Chỉ tiếc mối tình một bên của Thiện với cô em gái không thành, đã để lại mối bận tâm, khắc khoải không ít trong lòng, nên có lúc Thiện đã thầm trách tôi vô tâm, không đưa lời vun xới?!.

Ngoài đời, Thiện không nhiều lời, ba hoa. Trong chốn trường văn trận bút cũng thế, chữ nghĩa luôn chừng mực, chừng mực đến độ cô lại như nấu cao. Và như thế, cũng có thể gọi văn chương và cuộc đời Thiện là một?

Đời và văn của Thiện vẫn là những cảnh đời khốn khổ, bất trắc thường xuyên xảy ra trước mắt. Biết đấy, thấy đấy, nhưng không với tới được, không thoát ra khỏi. Nó cứ quấn lấy, ôm chặt từ lúc còn cắp sách tới trường cho đến những ngày hành quân liên miên, những cái chết, những trận đánh lớn nhỏ và, sau này khi mãn tù trở về, là những nhát cuốc trên rẫy sắn bạc màu, chỉ thấy toàn cát trắng và đá cuội, đến mức Thiện đã chống cuốc ngậm ngùi nhìn đất, nhìn trời, nhìn những củ sắn như bộ râu ông Quan Công mà không biết “kêu ai”(*)! Cuối cùng đánh liều “ngậm ngải tìm trầm” trên vùng núi Phú Yên, Khánh Hòa, Gia Lai… 2 năm đi “điệu” cùng với muỗi mòng, rắn rết, sốt rét rừng… cũng chẳng hề làm thay đổi cuộc sống của gia đình lên chút nào. Vẫn cứ nghèo “rớt mồng tơi”, đổi lại Thiện giàu vô cùng giàu chữ nghĩa, tích lũy thêm vốn sống, vốn dĩ đầy dẫy những nhọc nhằn, không phải chỉ riêng anh, mà còn cả những người dân sống quanh anh, một đời lam lũ…

Truyện ngắn Lê Văn Thiện có thể tạm chia hai thời kỳ rõ rệt: những truyện viết trong thời chiến tranh và truyện viết thời im tiếng súng (tôi không dùng từ hòa bình, bởi thật sự chưa hề có hòa bình trên đất nước này sau cái ngày u ám kia).

Hai tập: Một cách buồn phiềnSao không như ngày xưa, một do Văn và một do nxb Côi Sơn ấn hành đều trước năm 1975. Và những truyện ngắn ấy có thể nói đã khắc họa tiêu biểu cho bộ mặt chiến tranh VN cùng với những Ngô Thế Vinh, Y Uyên, Trang Châu, Thế Uyên, Phan Nhật Nam, Nguyễn Bắc Sơn… Tuy mỗi người mỗi vẻ, cách chọn đề tài và viết với phong cach khác nhau, nhưng có nét chung: Họ đều là thế hệ trẻ lên đường cầm súng để bảo vệ nền tự do cho phần đất còn lại luôn bị dòm ngó, xâu xé từ những cường quốc lắm súng đạn và thừa tiền bạc, như một trò chơi. Và những người trai trẻ bắt buộc phải lên đường, nhập cuộc trong cuộc chiến tương tàn, bẩn thỉu, đầy dẫy hệ lụy…

Mỗi nhà văn trong thời kỳ này, khắc họa chiến tranh theo cái nhìn khách quan nhất, đơn giản bởi họ là những người trong cuộc, trực tiếp sống chết với nó để nhìn thấy quá nhiều cảnh bi thương, hiểu đến tận cùng về thân phận con người, về đất nước nghèo khốn bị dày xéo tàn khốc: Anh chỉ có quyền bước tới mà không có quyền được bày tỏ ý kiến. Chỉ hành động theo lệnh mà không có quyền chọn lựa… Kết quả: tan nhà nát cửa, chết chóc, chia ly, hận thù chồng chất!

Chiến tranh thời đó (và thời nào cũng vậy), không do người dân nghèo dựng lên mà do lũ người “rửng mỡ” sắp đặt. Và Thiện phải cầm súng như bao thanh niên khác. Suốt tuổi thanh xuân, Thiện sống trong đạn bom, cái chết đủ kiểu cho nên anh không thể viết theo phong cách Mai Thảo, Nguyễn Thị Hoàng và những nhà văn “máy lạnh” khác. Cõi văn chương của Thiện là lằn ranh giữa sống và chết, là tiếng súng bắn tỉa, những đợt hành quân, những trận tấn công, giải vây, tháo chạy, cảnh lộn xộn, nhếch nhác nơi miền quê nghèo… Cho nên mỗi khi đọc truyện Thiện điều đập vào mắt, trí não tôi, trước tiên không phải là nội dung mà là những dấu phảy, dấu chấm, chấm phảy, ba chấm, hai chấm… Cứ một chữ có dấu phảy, hai chữ buông dấu chấm. Chỉ một đoạn văn ngắn thôi đã kín đặc các dấu câu, khiến tôi phải tự đặt câu hỏi: Phải chăng nhà văn bị ám ảnh bởi những loạt đạn dài ngắn, bởi cuộc đời “lên bờ xuống ruộng” của mình, của những người dân nghèo, bởi cảnh sống “chụp giựt” nơi phố phường và cảnh đời khốn khổ nơi miền quê Thiện sống, mà có lần vui miệng kêu : “…bằng lòng sống trong cái ao làng này” và thêm, rõ hơn trong một bài viết ngắn về Trần Hoài Thư: “Ở đây, tôi làm nông, gắn bó với ruộng đồng, ổn định. Tôi không than van, oán trách (Oán trách ai đây, trời chăng?). Than thở vô ích, nó chỉ làm suy nhược con người. Điều quan trọng (và kỳ quặc): tôi luôn nghĩ mình may mắn. Còn sống sau 7 năm đi đánh nhau, 33 năm vật lộn với áo cơm là may mắn… Tôi nằm trong cái ao làng. Tôi ngao du, ca hát, bơi lội thỏa thích ở đó. Đúng hên”.

Có lẽ “hên” do không chết thảm ngoài chiến trường, chưa chết trong nhà tù cải tạo và may mắn hơn là chưa chết khi phải vật lộn suốt từng ấy năm trời trên mảnh đất khô cằn, nghèo khó! Thiện không chết và chưa chết. Nhưng quanh anh, những người bạn, những chiến hữu của anh, bà con, đồng bào anh thì ngã vật ra chỉ sau một loạt đạn từ phía bên kia. Anh nhìn thấy tận mắt, chỉ cách mấy bước chân, nhưng bất lực nhìn bạn ngã gục một cách đau đớn, tủi nhục: “Thới thả cây súng xuống đất. Người đứng sau lưng kêu “trời”. Anh ta quăng một trái khói. Khói tỏa xanh đặc một khoảng, che khuất Khắc, cái thùng rác và phần dưới cái cây bên đường. Chúng nó lại bắn vào đám khói. Khắc được lôi vào, chỉ còn là cái xác. Nhưng cái xác đã bị thêm hai viên đạn nữa. Trên lưng Khắc đóng rõ ba lỗ máu. Người can đảm trừng trừng nhìn xác bạn, rồi tự vuốt mặt mình” (Trong lớp khói mầu).

Những cái chết như vậy, trong chiến tranh, là bình thường. Nhưng với với Thiện, thì sự bình thường kia lại vượt quá sức chịu đựng của con người nhạy cảm, như anh. Nội dung của truyện trên là cảnh Tiểu Đoàn liên hoan sau trận thắng lớn. Thới được gắn huân chương như một anh hùng và được mời lên sân khấu đọc thơ, ca hát. Nhưng người anh hùng kia không đọc được, không hát được, bởi nỗi ám ảnh kinh hoàng về cái chết trước đó của đồng đội khi đơn vị về giải tỏa thành phố trong trận Mậu Thân: “…Thới đấm trán, xốc lại quần. Mọi người lại cười rân. Thêm được hai câu nữa. Cảnh đường phố chập chờn, buổi chinh chiến… đạn xới sạt sạt, lúc nhanh, lúc như nước nhỏ giọt xuống mặt đường, bụi bay, một người ngã xuống mép đường, cây súng, cái mũ sắt… kìa nữa, khói xanh lan ra, chờn vờn. Không cố được nữa. Thới lắc đầu, nguy mất thật, hai chân thì vẫn đấy, nhưng cái đầu thì, coi kìa… sao lạ, mắt cứ thấy dâng lên, lan mãi ra một màn khói xanh” (Trong lớp khói mầu).

Đọc đến đây, tôi bỗng nhớ đến đoạn văn sau: “Qua máy truyền tin ông đại đội trưởng ra lệnh trung đội tôi bằng mọi giá phải chiếm ngôi lầu Ông Tề ở bên kia đường, sau trạm xăng (…). Rồi tôi hét: Chạy. Cả bọn cùng ào qua lộ. Ðạn đuổi theo, sủi bọt trên đường nhựa. Vô sự. Chúng tôi đã băng qua đường vô sự. Tôi chạy đến phía dưới trụ xăng, ngồi núp đàng sau trụ. Người lính truyền tin chạy theo tôi ngồi bên cạnh. Những người lính của tôi cũng tìm chỗ núp chung quanh. Chỉ còn khoảng 15 thước là đến ngôi lầu. Ðịch lại bắn rát. Ðạn địch sủi bọt trên đường, lỗ chỗ vào vỉa hè xi măng quanh mình. Ðạn xuyên qua cây xăng, lửa tóe lên. Chưa kịp ra lệnh gì thêm cho những người lính xung quanh thì bỗng nhiên đầu óc tôi xây xẩm.

Một viên đạn nào đó dịu dàng quá đỗi, hôn lên da thịt tôi, như một cơn gió thoảng, như một nụ hôn của định mệnh, của tuổi trẻ, của chiến tranh, của ngăn chia, của con ngựa chứng..”. (Trần Hoài Thư – Nhà văn trẻ ấy bị thương).

Khắc của Lê Văn Thiện thì “trên lưng đóng rõ ba lỗ máu”, còn tôi của Trần Hoài Thư là “một viên đạn nào đó dịu dàng quá đỗi, hôn lên da thịt tôi…”, cả hai đều làm nhiệm vụ tái chiếm thành phố trong Tết Mậu Thân!?

Dẫn hai đoạn văn trên, không có ý so sánh, mà hơn hết để chúng ta có cái nhìn rõ ràng hơn với ngòi bút Lê Văn Thiện. Cả cuộc đời quân ngũ của mình, Thiện luôn có mặt ngoài chiến trường với những trận đánh lớn nhỏ, từ Miền Trung vào Miền Nam qua tận Xứ Chùa Tháp. Thiện lăn lộn và chứng kiến tận mắt những cảnh khủng khiếp của chiến tranh. Tuy nhiên viết như một số nhà văn quân đội thời bấy giờ, về những trận đánh có mình tham dự, Thiện lại viết rất ít, rất hiếm hoi mới đọc được vài đoạn, lồng vào những bối cảnh khác. Đây, có lẽ cũng là một đặc điểm của Lê Văn Thiện chăng? Chiến tranh trong truyện ngắn của Thiện chỉ lấp ló, đậm nhạt vài chỗ từ những ký ức xa gần, từ cảnh sống của bà con nông dân ở nông thôn. Trong truyện Chúng mình ơi, đau buồn, Thiện dẫn dắt người đọc từ một nhân vật đọc cho người khác nghe một đoạn về chàng tráng sĩ, đến cảnh rộn ràng, chộn rộn của bầy trẻ háo hức đi xem kịch: “Một chiếc xe đạp chạy ngang qua cổng, bóp chuông. Tiếng trẻ con nói chuyện bỗng từ đâu trờ tới, xôn xao, rồi nhỏ ngay, mất hút. Có lẽ chúng nó đi mau, hay chậm lúp xúp. Chúng ra đình xem truyền hình.” Nếu chỉ dừng lại ở đây, chúng ta dễ có suy nghĩ tưởng tượng cảnh làng quê yên bình dưới ngòi bút của Lê Văn Thiện. Nhưng không phải vậy, sang đoạn sau thì nhà văn lại lồng vào cảnh mấy anh nhân dân tự vệ đi gác đêm: “Toán người gác đêm kéo đến, họ vào sân, nói chuyện xì xào. Nhà bác Tương có hai cái sân tốt, rộng, nằm không cần trải chiếu, nên toán gác này thường đến ngủ. Cũng có người bảo nhà này có một điểm khác quyến rũ, hơn hẳn cái sân làng, là con dâu bác Tương. Họ đàn ông con trai, khó trách họ được. Với lại họ cũng đàng hoàng, dễ thương (…). Ngủ chưa bác Hai? Cô Hai ơi, cho bọn này mượn chiếc chiếu. Cô Hai ơi, sao cái sân…”. Như vậy, trong cái làng quê yên ả kia, nguy cơ của chiến tranh đã lấp ló trong cảnh “chộn rộn, xôn xao” của lũ trẻ con đạp xe đi coi hát? Chiến tranh trong truyện của Thiện cứ nhẩn nha như vậy, đến với mọi người, với làng xóm một cách tự nhiên, thoải mái như thể tối phải ngủ, trưa chiều phải ăn uống, tóc dài phải cắt, rửa mặt, súc miệng… Nó (chiến tranh) có mặt như để tô điểm cho làng quê chút “sinh khí”, chút tiếng động ồn ào vốn dĩ đã ngủ yên bấy lâu, nay choàng thức dậy?: “Ông già ngồi gác bên chậu bông bỏ súng nằm xuống chân, nhịp tay hát hay ngâm gì đó, chắc hẳn để khỏi buồn ngủ. Chiến tranh thật sự đã có từ lâu, nhưng mãi đến khi thấy những ông già lãnh súng, những đứa nhỏ ngày đi học đêm đến moi súng xách ra đình làng tập họp, người ta mới trợn mắt, và lại còn ngạc nhiên. Chuyện giặc giã đã tiến đến cái mức xa thế này rồi sao?” (Chúng mình ơi, đau buồn).

Những cảnh huống như vậy, hẳn nhiên nhà văn đã từng sống với nó, chứng kiến tận mặt ở một cái xóm nhỏ heo hút nào đó không tìm thấy tên trên bản đồ cả nước, nhưng nó vẫn tiếp tục tồn tại với nhiều dạng thức khác nhau, và diễn ra ở từng mức độ cao thấp khác nhau mà thôi, bởi chiến tranh vẫn dồn dập, đạn bom vẫn thả xuống, vẫn tiếp tục nhắm vào nhau mà bắn… Cuối cùng là những hậu quả không thể tránh khỏi, cái hậu quả kia, lại chính những người dân vô tội phải gánh chịu: “… anh lại nhớ đám mả những người dân chết vì đạn lạc trong trận đánh tháng trước, chôn như dập trên các bờ ruộng. Mấy gò đất mới đắp mọc lên hai ba bàn chân… Một chân mọc thẳng, lòng bàn chân ngửa lên trời, da vàng tái, móp khô, trông nhỏ và rất dơ…” (Quán vắng).

Những truyện ngắn của Thiện viết về chiến tranh chỉ chừng đó không ồn ào, hối hả, không dồn dập, tưng bừng khói lửa, nhưng khi khép lại trang sách, nhắm mắt ta cảm thấy một chút đau nhoi nhói tim gan, bởi anh đã “thực chứng” những tình cảnh thảm thương, để khi lòng “tịnh” lại anh đưa nhân vật và câu chuyện một cách bình thản như chị nhà quê xách rổ ra chợ làng! Thản nhiên một cách bình dị mà đau!

Rất tiếc là trong tay không còn giữ tập truyện đầu tay của Thiện, Một cách buồn phiền! Tôi đã tặng lại Thiện cách đây mấy năm nhưng rồi anh cũng không giữ được (một người bạn nào đó tìm mượn rồi lấy đi luôn. Hành động này tôi thường gọi là lũ cướp giật). Tôi biết một người bạn văn còn giữ, tôi đến hỏi mượn làm tư liệu viết bài, anh hứa lục lại. Chờ. Gọi điện ba lần bốn lượt. Chờ. Và cuối cùng cũng chưa tìm thấy (tôi lại thất vọng lần nữa, và chưa tìm ra từ tương thích cho những lời hứa hẹn vồn vã!) để có thể viết một cách trọn vẹn về một Lê Văn Thiện với hai tác phẩm trước 75. Xin lỗi hẹn với tác giả và cả độc giả quý mến.

Có điều cũng cần nhắc ra đây: Một cách buồn phiềnSao không như ngày xưa được anh Trần Phong Giao chăm chút in ấn, phát hành với cả tấm lòng dành cho một nhà văn trẻ. Sau khi Trần Phong Giao thôi giữ chân thư ký tạp chí Văn, ra làm tờ Giao Điểm rồi Chính Văn, có lần tôi hỏi anh Giao với thái độ rất dè dặt, khiêm cung: “Phải chăng anh sợ mất tiếp một Lê Văn Thiện như chúng ta đã mất một Y Uyên?”. Anh chỉ mỉm cười: “Thôi, cậu uống đi”. Tôi hiểu tấm lòng của anh Trần Phong Giao đối với anh em văn nghệ, đó là cách làm âm thầm của anh với anh em đang lâm vào “bước đường cùng”, như vụ Trần Hoài Thư với mấy lời nhắn tin của anh: “Người em Xương rồng… tôi sẽ tìm cách… đừng làm gì khác nữa…”.

Các nhà văn trẻ khoát áo lính, sau 75, số phận mỗi người mỗi khác: Có anh chìm nghỉm vĩnh viễn giữa lòng đại dương mênh mông, có anh chết trong nhà tù vì đói khát vì bệnh tật, có anh trở thành thương gia giàu có, anh lang thang xứ người và nhiều người khác thì cắm mặt xuống đất, chổng đít lên trời để ngửi kỳ hết “mùi thơm tho đất mẹ”. Trường hợp sau rơi vào tay Lê Văn Thiện. Có điều Thiện đã chấp nhận nó và mỉm cười, “ngao du ca hát trong cái ao làng” như đoạn dẫn ở đầu trang.

Sau ngày ra tù cải tạo, Thiện không viết được gì nhiều; thỉnh thoảng thấy xuất hiện một hai truyện ngắn trên tờ Văn Nghệ Sài Gòn. Có lúc Thiện viết thư than: “Có lẽ không thể viết tiếp được rồi, khó quá”. Đây cũng là cái khó chung của hầu hết anh em viết văn còn ở lại trong nước. Có thừa mứa đề tài để viết. Cảm hứng cũng chẳng thiếu, nhưng viết kiểu ngựa chạy phải đeo mã trá, đi đường phải nép vào lề phải, và viết như hô khẩu hiệu thì bố anh nhà văn còn chút liêm sỉ nào viết nổi, thà bỏ bút (ngoại trừ những nhà văn lươn chình!). Đó cũng là lý do tại sao khi Thiện viết truyện ngắn Cơn gió mát, gửi đăng trên Thư Quán Bản Thảo số 11 thì nhân vật Thức là một quân nhân có một mối tình đẹp với một cô gái qua đêm đã chung thủy với anh ta, đến nỗi khi nghe tin anh đi tù cải tạo, cô Hiền Chi đã lặn lội mấy trăm cây số thăm nuôi, trong khi người yêu của Thức, một giáo sinh trường Sư Phạm Quy Nhơn lại ngoảnh mặt quay lui! “Chỉ có một điều khiến lòng Thức không yên, là Xuân Hà. Nàng cũng im lặng, biệt tăm. Lẽ nào Hà như vậy? Thức không nguôi nghĩ về Hà. Ban đầu anh nhớ nàng như nhớ người yêu. Về sau, anh nhớ như một người quen… (Cơn gió mát). Đến khi truyện ngắn này được gom lại với nhiều truyện khác đưa cho Hội VNKH xuất bản thì anh quân nhân Thức biến thành một Thức đi buôn chuyến, và trong một bữa nhậu, không kềm chế, Thức cầm vỏ chai bia đập vào đầu bạn nhậu. Hậu quả là: “…Được đưa vào bệnh viện kịp thời, nhưng anh ta nằm ì trong đó bốn tháng, và mất trí vĩnh viễn. Thức bị truy tố, ra tòa, bị phết cho bảy năm tù…” (Cơn gió mát). Vì vậy trong giới anh em cầm bút cũ dùng thuật ngữ: văn nghệ chính thống và văn nghệ chui! Chính thống là viết đầy đủ các “tính”, quan điểm rõ ràng. Còn chui là viết cho thỏa cơn khát, cơn ghiền và cất đâu đó trong đáy rương! Có nhiều người trách Lê Văn Thiện ở truyện ngắn đầy chất nhân văn này. Riêng tôi, tôi không trách và hiểu anh, hiểu thân phận của những người cầm bút cũ còn sống sót, còn ăn thóc Tần vương(!) và nhất là đang ở trong một cái làng nghèo, chưa ai học quá lớp 10?

Và điều này cũng có nghĩa rằng, 3 tập truyện ngắn xuất bản sau này, bắt đầu từ năm 2004: Chuyện đời, Mưa lạQuế, tổng cộng trên 40 truyện, nhà văn chỉ xoay quanh những chuyện đời thường, những truyện mà, nếu như mạnh tay một chút, có lửa một chút, bớt né tránh đi một chút, tôi nghĩ sẽ hay hơn, sẽ làm người đọc phải tự đặt câu hỏi cho các nhân vật hơn.

Trong truyện ngắn Chuyện vườn đào, anh trai tơ tên Tòng đem lòng yêu thương cô gái bán bia ôm Kim Châu, nhất quyết đòi cưới cô ta: “Anh không muốn em làm ở Gió ngày nào nữa… Anh không thích cái mùi bia trong áo em/ Anh tưởng em thích sao?… Mà này, về đây, nếu về với anh em làm gì?/ Chẳng cần làm, chỉ anh làm là đủ… Ờ, thì em đi chợ, nấu cơm, quét dọn, nuôi heo gà… Anh chỉ xin em bỏ một thứ thôi./ Bỏ?/ Đừng tô vẽ móng tay móng chân… Không có em thì anh chết” (Chuyện vườn đào).

Và rồi nhà văn dẫn giải: “Trong lúc đó, ở nhà mình, ông Hiểu thay bộ đồ mới, thắp ba nén nhang đến khấn vái trước bàn thờ bà Hiểu, như ông thường làm trong ngày giỗ bà. Ông cầu xin bà khôn thiêng hãy phù hộ cha con ông, khai mở tâm trí cho Tòng, đứa con trai độc nhất kẻ nối dõi tông đường… để nó biết chọn bạn, chọn vợ… không dính vào cạm bẫy bọn bất lương; thoát khỏi vòng tay tội lỗi của lũ yêu tinh mắt xanh mỏ đỏ” (Chuyện vườn đào).

Bối cảnh trong truyện Lê Văn Thiện, trước kia và cả sau này, vẫn là những làng quê, những nơi chốn anh ghé qua, hoặc sống cùng năm tháng với chúng, hoặc chỉ một thoáng. Nhưng những nhân vật anh dựng lên thì không hề xa lạ: Đó là những anh thầy giáo làng, những người buôn gánh bán bưng… và thi vị hơn một chút là những nghệ sĩ tỉnh nhỏ khoát lên mình chút lãng mạn tuổi trẻ ngày xưa, một chút hoài nhớ bâng quơ…

Truyện Một đời bay nhảy của Thiện là nguyên mẫu cảnh sống hối hả của thời đại, của xã hội thiết lập trên dục vọng thấp hèn, của đạo đức xuống cấp, của trật tự vật chất và tinh thần bị đảo lộn. Nhân vật Mận trong truyện này là con người tinh khôn, lọc lỏi, có những nhận xét bất ngờ ngay từ mới là cô học trò lớp 9: “Thầy hỏi: Em chẳng thuộc câu nào cả. Em không học bài? Mận nói: Văn gì khô rúm, cạn cợt, nhạt phèo, đọc nghe lục cục như xe lu cán đá… Nếu hay, em học hai mươi phút xong ngay!”.

Nền giáo dục “khô rúm, cạn cợt, nhạt phèo, lục cục…” là hệ quả tất yếu, không chỉ dành riêng cho nhân vật Mận mà còn cho các thế hệ học sinh trên đất nước này. Lớp trẻ ấy cứ lùng nhùng giữa chữ nghĩa trong nhà trường và thực tế bên ngoài, để cuối cùng cứ nhắm mắt lao bừa vào vũng lầy, không lối thoát. Nhân vật Mận là một điển hình như thế: “Hết năm lớp mười Mận tuyên bố nghỉ học. Ông Năm Thủ nói: “Chán thì nghỉ,, lớn rồi, , mày quyết định đời mày”. Và Mận đã lao vào những chuyến buôn lớn nhỏ với nhiều cuộc tình lớn nhỏ khác nhau, nhưng không mối tình nào ra mối tình nào. Và để bào chữa cho sự mình bị lừa, Mận triết lý: “Giỏi mấy, mình cũng là đàn bà!” Vậy rồi con đường bay nhảy cuối cùng của cô gái làng là “Mận uống thuốc ngủ tự tử. Vợ chồng ông Năm Thủ chết điếng”.

Đó chỉ mới là một phần nhỏ, rất nhỏ trong bức tranh nguệch ngoạc Lê Văn Thiện phác thảo về cảnh đời trong xã hội hiện nay. Nó không gây ấn tượng mạnh, chỉ là những câu hỏi tra vấn nhà văn đặt ra cho mọi người, nhưng rõ ràng là không có phản hồi, không ai lên tiếng nhận trách nhiệm để có thể đưa ra những giải pháp cụ thể làm trong sạch cuộc sống lên chút đỉnh. Bởi nền giáo dục đang có, chưa hề và chắc không bao giờ có những bài giảng đạo đức cho các em như thời cha ông của chúng đầu tuần vẫn phải đọc và ghi nhớ những câu cách ngôn trên bảng đen: “Cá không ăn muối… Gần mực thì đen…”, mà chỉ toàn nghe những nào là vĩ đại, kiệt xuất, ưu việt…

Còn trong giới có tâm hồn hơn, có học hơn thì sao? Trong truyện ngắn Bàn tay ấm áp, Lê Văn Thiện dẫn dắt người đọc một cách êm ái của đôi văn nghệ sĩ đi dự trại sáng tác do nhà nước tổ chức. Họ cầm tay nhau qua các phố Đà Lạt, cởi mở tâm tình, đọc thơ cho nhau nghe như một đôi tình nhân. Buổi dạo phố ấy đẹp, thơ mộng, lãng mạn… khiến cho nhà văn Quang đêm về cứ chập chờn bóng hình mới trôi qua trong đời mình: “Cái bàn tay trắng, mềm mại ấm nóng ấy hiện ra ám ảnh anh. Thái Anh chưa nói gì, không hẹn hò, nhưng tay trong tay trên một quãng đường dài như thế… chẳng phải có tình ý là gì? Còn hơn một lời hò hẹn!”. Khốn thay, “lời hò hẹn” do nhà văn Quang tự huyễn đã mở toạt ra: “Lúc gần 4 giờ sáng, Thái Anh dựng ông trưởng đoàn dậy, nhờ giúp đỡ. Đến phòng cô ta, nhà văn thấy ông nhạc sĩ Bá Phước nằm thẳng đuột trên giường, mắt trắng nhợt, sùi bọt mép. Hoảng sợ, ông Nguyên hô hoán ầm lên!

Cuộc chơi chấm dứt. Kết thúc một hành trình. Vở kịch hạ màn”.

Những truyện ngắn khác trong ba tập xuất bản sau 75 đều có chất giọng bình thản như vậy, xoay quanh nhiều cảnh đời khác nhau của những số phận làm người đầy dẫy những bất toàn. Đọc những truyện này, ta mới thấu hiểu hết tâm trạng một người cầm bút như Thiện, sống giữa một làng quê nhỏ bé, nghèo về mọi mặt, và hình như trong đó, trong những nhân vật Thiện dựng lên, thấp thoáng bóng hình nhà văn và những người thân quen trong đó.

Viết văn là một khổ lụy đời người. Lê Văn Thiện đã chọn nó như một định mệnh cột chặt, không cưỡng chống!

Nguyễn Lệ Uyên
Trích Trang sách và những giấc mơ bay – tập I (Thư Ấn Quán, 2010)

(*) Tên một truyện ngắn của Lê Văn Thiện trong tập Sao Không Như Ngày Xưa.

Tiểu sử Lê Văn Thiện

Sinh năm 1947, quê quán Vạn Ninh, Khánh Hòa.

Trước 1975 quân nhân phục vụ tại Trung Đoàn 47/SĐ 22 BB đóng tại Tuy Hòa. Sau chuyển về SĐ 9BB. Từng tham dự nhiều trận đánh ác liệt ở miền Trung, Tây Nguyên, miền Tây Nam bộ và Cambodge.

Sau 75 bị học tập cải tạo hơn 2 năm.

Hiện nay sinh sống bằng nghề làm rẫy tại quê nhà.

Tác phẩm đã in:

– Một cách buồn phiền 1969

– Sao không như ngày xưa 1971

– Chuyện đời 2004

– Mưa lạ 2006

– Quế 2007

– Truyện ngắn Lê văn Thiện trước 1975 (Thư ấn quán Hoa Kỳ, 2010)

Nguồn: Tác giả gửi

Đã đóng bình luận.