Chuyện của hai người bạn

Posted: 12/09/2014 in Truyện Ngắn, Xuân Tuynh

Xuân Tuynh

ban_gia

Ông Quỳnh đang say sưa bên giá vẽ. Tay đưa những nét bút đầy cảm xúc trên mặt toan. Bức tranh đồng quê thơ mộng đang dần hiện ra thì chuông cổng reo: kính coong!, kính coong!… Tiếng chuông cắt ngang dòng cảm xúc của ông. “Mới sáng ra, ai đến vào giờ này nhỉ?”. Ông thầm nghĩ trong đầu, đứng lên, ra mở cổng.

– Em chào thầy. – Ông Quỳnh chưa kịp nhận ra chàng thanh niên nhỏ nhắn, vận bộ đồ xanh đã nhạt màu là ai. Gỡ cặp kính trắng ra khỏi mắt, đưa tay dụi dụi khóe mắt, ông Quỳnh tiến lại gần chàng thanh niên.

– Thầy không nhận ra em sao. Em là Tùng, học sinh khóa hai. Cậu học trò thường được thầy cho điểm cao trong những tiết học thực hành… – Ông Quỳnh gật đầu.

– Nhận ra, nhận ra rồi. Trông em dạo này khác quá! Cao lớn hẳn lên. Thế còn ông đây là… – Ông chỉ sang người đàn ông trung niên cao lớn, có bộ ria mép vểnh lên, đôi lông mày rậm, bụng bự đứng bên cạnh Tùng.

– Giới thiệu với thầy đây là anh Tư Đởm, một đại gia, người rất hâm mộ tài năng của thầy. – Người đàn ông hai tay chắp trước ngực, cúi đầu chào chủ nhà.

– Mời, mời ông và em vô nhà. – Ông Quỳnh chỉ tay mời hai người khách vào phòng vẽ. Ông khách có tên là Đởm, nheo mắt nhìn những bức tranh sơn dầu đủ kích cỡ, bức treo trên tường, bức dựng quanh phòng, bức còn đang vẽ dở… Tư Đởm đi đến bên từng bức tranh nhìn ngắm, miệng lẩm bẩm: “Đẹp, đẹp chẳng kém gì Pan Rốc, Picasso ở… Nga Xô. Bức này lại có nét giống Bùi Xuân Phái, bức này nữa giống Tô Ngọc Vân… Cứ vậy, Tư Đởm nhận xét chẳng trúng trật gì. Thể hiện một gã chẳng hiểu gì về hội họa. Pan Rốc, Picasso lại nói quê ở Nga Xô. Ông Quỳnh đang sửa soạn ấm chén pha trà, nghe được những lời nhận xét tầm phào của Tư Đởm rất bất bình. Ông nhăn mặt, thầm nghĩ trong bụng: “Sáng nay mình lại tốn thời gian với thằng cha dở hơi này”. Ông Quỳnh chế trà ra tách mời khách. Ba người cùng ngồi quanh bàn trà, những chén trà nóng bốc hơi nghi ngút trong tiết trời cuối thu trong một căn phòng, rộng chừng năm mét vuông ấm cúng. Tùng hai tay nâng chén trà lên hớp một hụm, khẽ khàng đặt ly trà xuống bàn, đứng lên, hai bàn tay chắp trước ngực, lễ độ thưa:

– Thưa thầy, hôm nay em đến, trước hết thăm thầy, sau là đưa anh Tư đây đến nhờ thầy làm cho một bức tranh khổ lớn treo ở phòng lễ tân của Công ty Tươi mát có tên “Chiều Tím” do anh làm chủ. Anh Tư đây người hàng xóm của gia đình em. – Tùng nói xong, ông Quỳnh gật gật đầu, nhếch mép cười, đưa mắt về phía Tư Đởm:

– Vậy ông yêu cầu vẽ về đề tài gì, kích cỡ ra sao, chất liệu gì, sơn dầu, bột màu hay…? – Tư Đởm, đứng lên, đằng hắng một tiếng, cặp ria mép khẽ rung rung, nói:

– Thưa thầy. Nghe danh thầy đã lâu, nay mới hân hạnh được gặp. Yêu cầu của em rất đơn giản. Không cần đề tài chi cả. Họa sĩ cứ vẽ thế nào nhìn vô thấy gợi cảm để… muốn… vô nhà hàng ngay là được. Về chất liệu, tùy họa sĩ, sơn dầu, bột màu chi chi cũng được. Xài một thời gian nhạt màu thì vẽ lại. Còn về kích thước càng lớn càng tốt. Bức tường trong phòng lễ tân của em bao la. Có thể thầy vẽ khổ 50 x 80 cũng được. Tiền bạc không thành vấn đề, thầy khỏi phải bận tâm. Thú thực với thầy, chỉ cần có tên của thầy ký dưới chân bức tranh là thỏa mãn rồi. – Tư Đởm vừa nói dứt lời, mặt ông Quỳnh đỏ phừng, hai bên thái dương giật giật. Ông rất tức giận, muốn đuổi Tư Đởm ra khỏi nhà, nhưng ông cố kìm nén nỗi tức giận. Ông đứng lên, dõng dạc nói:

– Yêu cầu của ông như vậy thì xin mời ông tìm đến họa sĩ khác, nhờ người ta vẽ cho. Thành phố này thiếu gì họa sĩ. Tôi không quen vẽ loại tranh đó.

Trước thái độ nghiêm khắc của ông Quỳnh, Tư Đởm thầm nghĩ: Một họa sĩ tài hoa lại từ chối một bức tranh quá ư đơn giản, hay là ông ta chê mình không có tiền bạc. Mình đã nói tiền bạc không thành vấn đề cơ mà.

– Thưa họa sĩ, à… Thưa thầy, xin thầy gắng giúp cho. Tiền bạc cụ thể bao nhiêu, xin thầy cứ ra giá. Thời buổi kinh tế thị trường mua bán phải sòng phẳng. Thầy đừng ngại. Nghệ thuật cũng là hàng hóa mà.

Lúc này thì ông Quỳnh không thể bình tĩnh được trước những lời ngạo mạn, ỉ mình là người giàu có. Giọng đầy bực tức:

– Đi, đi, mời ông ra khỏi nhà tôi. – Quay sang nói với Tùng: “Tùng, em là học sinh của thầy, mà lại không hiểu thầy sao. Lại mang đến cho thầy một… Thôi, cả em nữa, về đi, về đi!” – Tùng lúng túng, không biết nói gì trước sự giận dữ của thầy Quỳnh, kéo tay Tư Đởm: “Thôi, ta về đi anh”. Hai người ra khỏi cổng, ông Quỳnh đóng cổng, tiếng cổng dập rất mạnh, phát ra một tiếng kêu nhói óc: “sầm!”. Ông quay vô phòng vẽ, cầm ly nước Tư Đởm uống dở, ném cả chiếc ly ra ngoài vườn. Đúng lúc này cô con gái của ông Quỳnh xuất hiện. Suốt cả giờ đồng hồ vừa qua, cô ở nhà trên chứng kiến hết sự việc diễn ra giữa cha mình với hai người khách. Cô phụng phịu nói:

– Cha thiệt chẳng ra sao cả. Người ta mang việc đến cho, trả công hậu hĩnh lại còn mắng mỏ, đuổi người ta về. Nhà bữa nay chẳng còn đồng xu mốc nào cả. Lương của cha mẹ chưa tới kỳ, hồi hôm mẹ phải mượn tiền của bà Tám, bán bánh canh ở đầu phố mua gạo đó. Nếu cha còn giữ cái bệnh sĩ này thì nhà ta còn khổ. Con cũng chẳng có đủ tiền mà ăn học. – Cô gái sụt sùi khóc, vùng vằng ra khỏi nhà. Ông Quỳnh nghe con nói lòng đau như xát muối, nhưng không biết giải thích bằng cách nào với con. Ông thở dài, buồn rầu, ngồi phịch xuống chiếc ghế tựa, hai tay ôm đầu, nước mắt ông ứa ra. Bỗng một làn gió từ ngoài cửa thổi vào làm lay động các bức tranh treo lỏng lẻo trên tường. “Kính coong!, kính coong!…”. Lại có tiếng chuông cổng reo. Ông Quỳnh bừng tỉnh. Miệng lẩm bẩm nói: “Không biết lại có ai đến quấy rầy nữa đây? Ông rời khỏi ghế, chậm chạp ra mở cổng. Thoạt nhìn thấy ông Huỳnh, người bạn vàng của mình, ông Quỳnh đưa tay chùi vội những giọt nước mắt còn đọng trên gò má, reo lên:

– Trời! Huỳnh, bạn đến đúng lúc lắm, mình rất cần có bạn lúc này. Vào đi, vào đi, ông bạn vàng của tôi! – Hai người dắt tay nhau vô nhà.

– Sao. Có chuyện chi mà cần đến mình. À, mà đằng ấy có chuyện không vui phải không. Nhìn mặt bạn mình biết liền mà? – Ông Quỳnh đổ ấm trà cũ, chế một ấm trà mới, rót ra ly mời ông Huỳnh.

– Bạn uống trà đi. Chúng ta nói chuyện. Hôm nay bạn phải ở chơi lâu để thưởng thức mấy bức tranh mình mới vẽ xong. – Ông Huỳnh nâng ly trà hớp một hớp nhỏ, mồi điếu thuốc lá, hít một hơi, thả khói tròn, bay lượn vòng trước mặt, giọng sảng khoái:

– Mới có mấy ngày không tới thăm bạn mình thấy bứt rứt trong lòng. Mình có thể vắng bà xã đôi tuần chẳng sao. Nhưng chỉ cần vắng bạn vài bữa đã nhớ. Có lẽ từ kiếp trước ông trời đã sắp đặt cho chúng ta sống gần nhau, thân thiết với nhau như hình với bóng. – Ông Quỳnh cũng mồi điếu thuốc, hút một hơi, thả khói bay lên cao, cười nói:

– Trước lúc bạn tới, mình vừa đuổi một gã bặm trợn, chẳng hiểu gì về hội họa, nói năng, nhận xét lung tung, ỉ mình có lắm tiền, đặt vẽ một bức tranh nhăng nhít để treo ở phòng lễ tân một nhà hàng tươi mát của gã. Mình từ chối thẳng thừng. Gã tưởng mình hám tiền, nói giá cả do mình định. Mình nổi giận, tống khứ gã đi.

– Bạn xử sự như vậy là đúng. Mới tuần trước mình cũng từ chối một hợp đồng cả vài chục triệu để viết hồi ký cho một tên “quan tham”. Hắn có tên là Trần Minh.

– Trần Minh cách đây hơn chục năm dính vào vụ “siêu lừa Nguyễn Đình” phải không? – Ông Quỳnh hỏi.

– Đúng vậy. Trí nhớ của bạn còn tốt đấy.

– Cái vụ ấy nổi tiếng cả nước, ai chẳng biết. Mình còn nhớ thời điểm Trần Minh bị bắt, buổi sáng dân chúng mọi nơi tụ tập quanh nhà Trần Minh cả nghìn người, chứng kiến công an đến áp giải Trần Minh đi. Nhà báo BC viết một phóng sự đăng trên Báo Lao Động. Trong phóng sự mình tâm đắc nhất đoạn nhà báo viết “… Sáng nay cả ngàn người dân trong thành phố đổ về số nhà… đường… để nhận mặt tên quan tham; một kẻ lợi dụng chức quyền gây ra bao tội ác với dân…”.

– Một kẻ xấu xa như vậy mà giờ còn muốn viết hồi ký để lại cho con cháu. Thiệt không biết liêm xỉ là gì. Bạn thấy có mỉa mai không? – Ông Huỳnh nói. – Ông Quỳnh chép miệng:

– Thời buổi nay có nhiều chuyện nhiễu nhương. Đôi lúc ngồi ngẫm thấy buồn bạn ạ. Vì đồng tiền mà nhiều người đánh mất lương tâm. Vài năm gần đây, ngày nào trên báo chí, trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng đầy ắp những vụ tham nhũng lớn bé, những tội phạm giết người, cướp của, có không ít những kẻ còn ở tuổi vị thành niên đã phạm tội. Có những kẻ đã cầm dao giết chết bố mẹ, ông bà lấy tiền đi hút chích. Thanh thiếu niên thời nay không thích học Sử, không thích nghe dân ca. Chúng cho dân ca là loại hình âm nhạc lạc hậu. Âm nhạc tụi trẻ thường hát bây giờ là híp hóp, nhạc Hàn, nhạc Mỹ… Không nói đâu xa, ngay đứa con gái của mình mỗi khi thấy cha mở nhạc dân tộc là nó bịt tai, lên phòng đóng kín cửa. – Ông Huỳnh ngắt lời ông Quỳnh nói:

– Chẳng riêng gì lĩnh vực âm nhạc, cả văn thơ cũng thế. Giới trẻ thời nay đưa ra cái thuyết “hậu hiện đại” cao giọng phê phán tiền nhân. Đua nhau viết ra những thứ văn, thơ đọc lên chẳng ai hiểu. Ngay trong ngành hội họa của bạn cũng vậy. Gần đây tôi thấy một số họa sĩ vẽ tranh gì mà tớ nhìn chẳng biết nó vẽ gì. Chỉ thấy màu mè, xanh, đỏ, tím, vàng, ngoặc ngang, ngoặc dọc. Cầm bức tranh chẳng biết đâu là đầu, đâu là cuối. Hỏi, được tác giả trả lời: “Treo kiểu nào cũng được”. Sáng tác đã vậy, lại còn căn bệnh “đạo” nữa chứ. Đạo văn, đạo nhạc, đạo hình, đạo họa. Không những chỉ có đạo mà còn ăn cắp nguyên si tác phẩm của người khác, đề tên mình vào đưa đi dự thi, đưa in báo chí. Như sự vụ ở tỉnh ĐN bị báo chí phê phán trong những năm gần đây. Ở lĩnh vực văn học nghệ thuật đã vậy. Trong các lĩnh vực khác như y tế, giáo dục, kinh tế… cũng bê bối chẳng kém. Mình nhớ mấy câu thơ của một nhà thơ viết thế này:

“… Ngẫm những chuyện đã qua
Mà lòng nhức nhối
Người gác rừng tìm hang sâu ẩn náu
Mặc lâm tặc chặt gỗ phá rừng
Nước lũ về tàn phá xóm thôn.
Người canh cửa Hải Quan
Ngồi khoanh tay trong phòng lạnh
Mặc hàng lậu tràn vào như thác…
Người giao giữ kho bạc
Thì mở toang két sắt
Để bọn sâu mọt chui vào
Thi nhau đục khoét bạc vàng…”

Không biết cái nghịch lý này do đâu mà ra…? Giờ cái thế hệ mình và bạn chỉ còn biết đứng nhìn. – Ông Huỳnh đứng lên, tay chắp ra sau lưng, lững thững bước ra đứng trước vườn rau xanh của ông Quỳnh, hát mấy câu chèo:

“Thế sự nhân tâm khéo nực cười
Phải chăng triều thủy lúc đầy vơi!”

Ông Quỳnh từ trong phòng tranh bước ra hát:

“Hương lan quế tịch hương thoảng
Nước biếc gieo mình phút thảnh thơi!”.

Ông Huỳnh vỗ vào vai ông Quỳnh:

– Không thể “Nước biếc gieo mình…” được. Phải sống. Mình và bạn, chúng ta phải sống để xem “con tạo xoay vần ra sao”. Cả hai ông nhìn nhau cười!.

***

Ông Quỳnh và ông Huỳnh, hai ông đều sinh ra ở đồng bằng Bắc bộ. Ông Huỳnh hơn ông Quỳnh chừng hai, ba tuổi. Cả hai ông đều trải qua cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ông Huỳnh là lính thông tin, ông Quỳnh là lính pháo binh. Những năm chống Mỹ cả hai ông đều có mặt ở chiến trường miền Nam. Sau ngày giải phóng miền Nam, cả hai người sống xót trở về. Ông Quỳnh đi học mỹ thuật, ông Huỳnh theo đuổi nghiệp văn chương, bởi ông có năng khiếu thơ văn từ thuở nhỏ. Đầu thập niên tám mươi của thế kỷ trước, ông Quỳnh về giảng dạy ở một trường cao đẳng nghệ thuật của tỉnh K, ông Huỳnh cũng về công tác ở ngành văn hóa tỉnh K. Hai người cùng hoạt động trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, qua những lần họp hành, đi thực tế sáng tác, ở cùng phòng với nhau, hai người trở nên “ý hợp tâm đầu”, thành một đôi bạn tri kỷ. Cả hai ông đều có chung sở thích yêu chèo, yêu các làn điệu dân ca vùng đồng bằng Bắc bộ. Ông Huỳnh thuộc nhiều làn điệu chèo và hát cũng hay. Lần nào hai ông gặp nhau, trao đổi với nhau về một vấn đề nào đó trong nghệ thuật hoặc các vấn đề thời sự xã hội. Xuất thân từ người lính, nên mỗi khi tranh luận với nhau rất quyết liệt. Tranh luận đến tận cùng cho ra vấn đề mới thôi. Nhiều lúc hai người tranh luận với nhau người ngoài nghe ngỡ hai ông cãi nhau. Dù tranh luận với nhau căng thẳng mấy, cuối cùng hai người lại cười xòa, cùng nhau cất lên một làn điệu chèo quen thuộc:

“Lạc chốn đào nguyên ơi i nói i nào ngờ đâu, ngờ đâu bây giờ ta lạc chốn đào nguyên…”. Đó là làn điệu Sa lệch chênh trong tích chèo Quan Âm Thị Kính. Ông Quỳnh thường kể với ông Huỳnh, ngày xưa ở quê, mình tham gia trong đội văn nghệ của làng, mình đã từng thủ vai Thiện Sĩ, trong vở Quan Âm Thị Kính.

Ông Quỳnh vẽ tranh rất nhiều. Hàng ngày hết giờ lên lớp, về đến nhà là đắm mình trong phòng vẽ. Nhiều bận vẽ quên cả ăn. Sở trường sáng tác của ông nghiêng về đề tài phong cảnh đồng quê. Nét bút của ông rất tài hoa. Đôi khi chỉ phẩy nhẹ một nét cọ là ra một chiếc lá nhìn rất có hồn. Những bức tranh về phong cảnh đồng bằng Bắc bộ, về miền Trung du, về Đà Lạt… có thể nói là tuyệt tác. Tôi nhiều lần được xem tranh của họa sĩ Lê Quỳnh, những bức tranh của ông gây sự xúc cảm trong lòng tôi. Vẽ nhiều tranh như vậy nhưng họa sĩ Lê Huỳnh suốt đời chỉ là một gã họa sĩ nghèo. Tranh của ông rất kén người mua. Trong khi đó có không ít họa sĩ, học trò của ông lại sống khỏe bằng nghề. Tranh vẽ ra có nhiều người mua. Có lần tôi khuyên ông thay đổi bút pháp, vẽ theo lối tranh bờ hồ, tranh thị trường để kiếm sống. Ông đã mắng tôi: “Cậu chẳng hiểu gì về tớ cả”.

Ông Huỳnh cũng giống như ông Quỳnh, thơ văn của ông viết rất cẩn trọng, trau chuốt từng câu chữ. Nhiều khi viết một bài báo ông cũng viết rất lâu. Ông từng nói với tôi: “Viết văn là một nghề cực khổ lắm. Mỗi lần viết dù chỉ một bài tạp bút với mình cũng thấy vất vả”. Ngót bốn chục năm viết văn, với bút danh Nguyễn Huỳnh, ông đã cho ra đời năm đầu sách gồm truyện ngắn, bút ký và thơ. Số đầu sách như vậy so với các nhà văn cùng thời với ông là ít. Nhưng với ông, ít hay nhiều không quan trọng. Ông thường tâm sự với bạn văn: “Cái nghề văn số lượng chẳng nói lên được điều gì. Cái chính là chất”. Hơn nữa, bút pháp của ông luôn trung thành với lối viết truyền thống, sự đổi mới của ông có chăng là ở ngôn từ, ở cốt truyện. Truyện, thơ của ông hợp với lứa tuổi trung niên.

Ông Quỳnh và ông Huỳnh, đều có chung một sở thích “hoài cổ”, nặng nợ với quá khứ; yêu hát chèo, vì vậy hai ông “tâm đầu ý hợp” chơi với nhau bền chặt suốt bao thập niên qua.

***

Sau bữa cơm trưa đạm bạc ở nhà ông Quỳnh, bữa ăn chỉ có rau muống luộc với cà pháo, cá bống kho tiêu, những món ăn dân giã cả hai ông đều hợp khẩu. Ông Huỳnh nói với ông Quỳnh:

– Quỳnh này, hai đứa mình đã đầu hai thứ tóc, cái tuổi già sắp ập đến sau lưng. Chẳng biết thế sự rồi đây sẽ ra sao. Mình cảm thấy buồn và lo Quỳnh ạ! – Ông Quỳnh buông đôi đũa xuống mâm, nói:

– Lo nghĩ chi cho mệt. “Mặc cho con tạo xoay vần”. Các cụ ta xưa đã từng nói vậy mà.

Ông Huỳnh rời khỏi nhà ông Quỳnh ra về tâm trạng nặng trĩu những ưu tư.

Qua mùa đông, vào đầu mùa xuân năm Nhâm Thìn, ông Huỳnh và ông Quỳnh cùng với mười văn nghệ sĩ của tỉnh K, được Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh tổ chức cho đi trại sáng tác ở Nhà sáng tác Đà Lạt. Trong số mười hai trại viên, già có, trung niên có, trẻ có. Trưởng trại bố trí ông Huỳnh và ông Quỳnh ở chung một phòng. Phòng bên cánh văn nghệ sĩ trẻ ở suốt ngày hát hò, tranh luận nhau cây bút này viết mạnh bạo, cây bút kia miêu tả chuyện làm tình quá đã… Riêng ông Quỳnh và ông Huỳnh suốt ngày lặng lẽ làm việc. Ông Quỳnh vẽ, ông Huỳnh ngồi viết. Lúc giải lao, ra ngồi bên bàn trà, hai ông lại ngâm nga mấy câu chèo cho khuây khỏa rồi lại lao vào làm việc. Bỗng một buổi chiều, vào tuần thứ hai của trại, có hai cô gái Đà Lạt, tuổi chừng ngoài ba chục, đến trại chơi, muốn được làm quen với văn nghệ sĩ. Một cô tên là Nguyệt, một cô tên Duyên. Cả hai đều là nhà kinh tế thành đạt, có cửa hàng, cửa hiệu riêng. Cả hai nhà doanh nhân trẻ này đều yêu thích nghệ thuật. Mấy cậu con trai thấy có người đẹp đến, niềm nở mời vô phòng, miệng nói búa xua. Người ôm đàn gẩy bập bùng, kẻ trổ tài đọc thơ cốt gây được cảm tình với hai cô gái Đà Lạt xinh đẹp. Nguyệt và Duyên ngồi im lặng, không hé môi nói một câu. Trong ánh mắt của Nguyệt và Duyên, các gã chàng trai trẻ này chả là gì. Ngồi một chặp, Nguyệt lên tiếng:

– Các anh cho em hỏi, ở trại ta có họa sĩ Lê Quỳnh không ạ? – Có, có họa sĩ Lê Quỳnh, em quen họa sĩ Lê Quỳnh à? – Một chàng trai mau miệng lên tiếng.

– Chưa gặp nhưng tụi em rất yêu tranh của họa sĩ Lê Quỳnh qua đôi lần tụi em được xem tranh của anh Quỳnh triển lãm ở Hà Nội, Sài Gòn. – Nguyệt nói. – Thấy hai cô gái không để ý đến mình, lại hỏi họa sĩ Lê Quỳnh, mấy chàng trai trẻ chưng hửng, đành đưa hai cô gái sang phòng bên gặp họa sĩ Lê Quỳnh.

Tuy mới gặp nhau lần đầu, nhưng cả Nguyệt và Duyên nhận thấy Lê Quỳnh rất gần gũi. Ba người họ ngồi với nhau cả buổi bàn luận về nghệ thuật. Nguyệt và Duyên rất yêu thích tranh của Lê Quỳnh. Duyên nói:

– Tranh của anh Quỳnh rất có hồn. Những bức tranh anh vẽ về Đà Lạt em rất thích. Em trân trọng những họa sĩ như anh.

– Cảm ơn, cảm ơn những lời chia sẻ chân tình của em. – Lê Quỳnh xúc động nói. Từ bữa đó, Lê Quỳnh và Duyên, Nguyệt trở thành những người bạn thân.

Kết thúc trại, về lại với thành phố biển, Lê Quỳnh vui hẳn lên, hăng say vẽ và vẽ được rất nhiều tranh.

Quỳnh và Huỳnh, hai ông vẫn thường xuyên đến với nhau, động viên nhau sáng tác. Điều bất ngờ là có nhiều du khách tìm đến mua tranh của Quỳnh. Những bức tranh về đề tài làng quê Việt… Quỳnh vẽ ra đến đâu khách mua hết đến đó.

Ông bạn vàng, nhà văn Nguyễn Huỳnh, mỗi khi thấy bạn vẽ được một bức tranh mới về phong cảnh quê hương, đất nước lại mua hoa sang tặng, chia sẻ niềm vui với bạn. Cô con gái của ông Quỳnh từ ngày thấy cha mình bán được tranh, miệng luôn tươi cười, học hành chăm chỉ và hết phụng phịu với cha.

Xuân Tuynh
Nguồn: Từ Sâm giới thiệu và chuyển bài

Đã đóng bình luận.