Nam Chi
Đối với người nghệ sĩ nói chung, khi hoàn thành một tác phẩm bất kỳ, là đã trút hết được những suy tư, trăn trở, ước vọng… của mình, sau đó là phần của người thưởng ngoạn. Họ đón nhận như thế nào, có đúng như tác giả mong muốn hay không? và cách nào họ đón nhận tác phẩm là điều hoàn toàn không thể nào tác giả biết được, đôi khi có trường hợp tác giả chẳng bao giờ ngờ tới; Ba bài ca học trò của nhạc sĩ Phan ni Tấn đối với tôi cũng vậy. Tôi đón nhận ba bài ca này một cách hết sức tình cờ và trong một hoàn cảnh đặc biệt.
Cuối năm 1978, tình hình chính trị tại Việt Nam lúc ấy rất căng thẳng, áp lực của Trung Quốc ở biên giới cả hai đầu nặng nề, để đề phòng mọi bất trắc “tiên hạ thủ vi cường” Cộng Sản VN đã tập trung một số thành phần mà theo họ có nguy cơ tạo bất lợi ngoài xã hội, mặc dù đã “học tập cải tạo ” có giấy thả về trước đó. Tôi nằm trong số này và bị đưa ra trại A30 tại Tuy-Hòa cùng với khoảng 200 người khác chia thành hai đội. Cả trăm con người chen chúc nhau trong một cái lán tranh, vách đất, xung quanh dọc theo tường là hàng chõng đan bằng cây săng con, mỗi người xích qua nhích lại chưa được 40 phân – không đủ rộng cho những anh chàng nào vai u thịt bắp ngả lưng, vì thế việc gấu ó nhau, xảy ra như cơm bữa nhất là những ngày không phải đi “lao động “. Một chiều chử nhật mưa lất phất, không khí oi nồng, mọi người dồn cả trong lán, mỗi người một cách giết thời gian: Chỗ thì xúm vào bàn cờ tướng, đám thì dồn vào nghe một anh chàng nào đó đang vanh vách kể chuyện “chưởng Kim Dung ” đôi anh quen nhau trước đó hàn huyên tâm sự to nhỏ, có anh thì “tranh thủ” vá áo quần, dù mới chỉ trải qua chưa đầy một tháng tại đây, phần lớn còn chưa biết hết tên nhau. Chỗ tôi nằm ngay cửa ra vào, đang nhìn mưa rơi rả rich, bỗng tôi nghe một giọng hát trầm bổng, điêu luyện vang lên từ phía cuối lán, trộn lẫn trong cái ồn ào, nhốn nháo của một nơi ô hợp như ở nơi đây, âm thanh của bài hát nghe lạ tai, và lời thì chưa nghe bao giờ cả dù cũng tự cho rằng mình biết khá nhiều nhạc.
Tôi lần xuống theo âm thanh bài hát, đến gần cuối phòng thì thấy 2 người nằm cạnh nhau đang hát một cách say sưa, cả hai anh đều trạc tuổi tôi và cũng quen sơ trước đó, tôi sà xuống nằm bên cạnh, Ninh chỉ khẽ nhích đủ chỗ cho tôi và vẫn tiếp tục bài hát anh đang hát dở như chẳng để ý gì đến sự có mặt của tôi, bấy giờ tôi mới nghe thật rõ những lời réo rắt của bài hát lạ qua giọng điêu luyện, tròn đầy của anh :
“Cuộc chém giết chưa đến hồi ngả ngũ, nên máu xương nhuộm đỏ mối thù hằn …” từng chữ, từng chữ một anh nhả ra thấm đậm vào lòng tôi, “nên giới tuyến người lui về cố thủ, và bày trò đánh lén ở sau lưng …” -“lũ chúng con một vài thằng gục ngã, rất âm thầm như những giọt sương khuya, làng quê con băng mình trong lửa đạn, và đường về nghẽn lối phân chia …” hết bài này anh chuyển sang bài khác, cũng vẫn những lời ca lạ lẫm đói với tôi : “Kính thưa thầy đây bài chính tả của con, bài chính tả viết về nước Mỹ, con viết hai lần sai chữ American, con viết hai lần sai chữ Communist, con viết hai lần sai chữ Liberty. Làm sao được, làm sao được bởi anh con vừa chết …”. Tôi lặng người chìm đắm theo bài hát, quên đi mọi sự xung quanh, quên cả khung cảnh mình đang sống, cho đến khi Ninh dừng hát, ngoài trời mưa đã dứt từ lúc nào, và hoàng hôn buông xuống cảnh vật tối mờ mờ, lặng lẽ rời về chỗ nằm của tôi, lòng vẫn còn trĩu nặng những hình ảnh mà bài hát đã vẽ ra qua diễn tả tuyệt vời của giọng hát anh Ninh .
Từ đó tôi dành mọi cơ hội để có thể làm quen với Ninh, và bất cứ khi nào có dịp lại đòi anh hát cho nghe “ba bài ca học trò ” như sau này anh cho biết tên của nó, trước khi nghe cả “tủ ” nhạc đủ loại của anh và không biết từ lúc nào mà tôi đã nằm lòng lời các bài này, kể cả nghêu ngao “hét” theo.
Có lẽ bài hát có vẻ “phản chiến” mà chúng tôi – người hát, kẻ nghe – không bị khó dễ gì trong một môi trường đầy nghi kỵ, dòm ngó trong chỗ lao tù này, với không ít những antene rình rập đêm ngày xung quanh sẵn sàng báo cáo mọi biểu hiện không bình thường của người khác để tâng công và tìm những lợi lộc đê hèn cho mình, quả thực nếu được nghe các bài hát này trong một nơi chốn khác, hoặc thời điểm khác chưa chắc gì đã hằn sâu trong tôi như thế, nhất là ở thời điểm mà những sản phẩm “thời thượng” đủ loại bày nhan nhản trên mọi phương tiện nghe, nhìn, đọc của những năm tháng chiến tranh tàn khốc trên quê hương. Đối với bọn “lính tráng ” chúng tôi ,những kẻ trực tiếp đối diện với những thực tế của cuộc chiến, những chết choc, mất mát hy sinh của người quen, bạn bè không còn mơ hồ xa xôi nữa, nhất là sau tết Mậu Thân, với lệnh Tổng động viên, hầu như cả một lớp người từ bỏ mọi quen thuộc của đời sống hàng ngày ném mình vào trong lửa đạn với tất cả bi tráng của cuộc đời quân ngũ. Những biểu hiện “hiện sinh ” hippi”,với hình thức lập dị, yeye, cty, chống chiến tranh “peace not war”-“love not war”đã là những cái gai nhức nhối chọc vào mắt chúng tôi, những đầu tóc bờm xờm, đeo mắt kính trắng, tay cầm hững hờ những Hermann Hess, những Andre Gide, Francois Sagan, Jean Paul Sartre những tác phẩm “ghế đá công viên”, “khều mặt trời” “yêu nhau đi chiều hôm tôi rồi”, bên cạnh đó là những bài Nhạc Trẻ, Hát cho Dân tôi nghe, tiếng hát từ đồng hoang, tiếng hát át tiếng bom… xa rời với thực tiễn đã làm tăng thêm ác cảm, dị ứng của chúng tôi… Thế nhưng bây giờ, trong một tình thế mới, với một thân phận mới, những lời hát này lại là những nỗi niềm u uất dằn vặt, khi nó được nhìn dưới góc độ khác.
Trong hành trang trở về từ nhà tù nhỏ tôi mang theo tâm ba bài hát này, và những lúc vắng vẻ, chán nản lại lẩm nhẩm hát một mình ậm ừ để nhớ về một đoạn đời khó quên. Rồi nó theo tôi ra tới Hải ngoại, đôi lần trong những dịp họp mặt thân hữu, những buổi văn nghệ tết cộng đồng, cắm trại, pinic, bằng cái giọng vịt đực, bằng cái vốn âm nhạc nghèo nàn, tôi ong ỏng đóng góp phần mình trong các sinh hoạt ấy mong được sự đồng cảm của ai đó chăng? Nhưng”tài” của tôi có lẽ chỉ chinh phục được các con tôi khi chúng còn trong… nôi cần tôi ru ngủ thôi, theo năm tháng cùng những sáng tác “tâm huyết” mà các bạn tôi gửi gấm theo tôi và ba bài hát học trò dần trở thành kỷ niệm riêng.
Thực sự cho đến cuốn Paris-By-Night, mà Thế Sơn hát bài ca này ra đời, tôi cũng không biết đích xác tác giả là ai, chỉ nghĩ rằng nó thuộc những bài Du ca mà Ninh đã từng sinh hoạt một thời sinh viên thôi, tôi chưa lần nào hỏi Ninh về tác giả, nên khi nghe giới thiệu bài hát của Nhạc sĩ Phan Ni Tấn tôi tò mò chú ý, nhất là anh lại đang ở Canada, rất gần với Paris-By-Night, khi tiếng hát Thế Sơn cất lên giai điệu bài hát, tôi ngạc nhiên bởi quá khác lạ so với những gì tôi đã biết, dù lời thì không khác lắm; từ một bài hát với những kể lể u uất, về thân phận nghiệt ngã của cả một thế hệ bỗng trở thành một điệu nhạc vui tươi, tinh nghịch khiến tôi không dám nhìn thẳng vào màn hình để thấy những gì được dàn dựng, và tôi chợt cảm thấy tội nghiệp cho người nghệ sĩ đang trình diễn. Vài hôm sau từ Úc em tôi gọi sang :
– “Anh có cuốn Paris-By-Night mới ra chưa?”
– Ờ, có rồi, mới xem
– Anh nghe Thế Sơn hát bài ca học trò rồi hả? Sao không giống với bài hát mà chúng em đã từng sinh hoạt bao nhiêu lần lúc ở Saigon vậy?
Không đợi tôi trả lời nó ong ỏng hát một đoạn bài hát, âm giai đúng như tôi từng nghe, từng biết, nhờ đó tôi biết thêm chi tiết về bài hát đã từng được phổ biến khá rộng này; tôi cũng đồng ý với người em nhưng không thể giải thích được cái thắc mắc mà chính tôi cũng đang có, chỉ tự nhủ rằng có lẽ đây mới đúng là bài hát nguyên thủy vì tác giả chẳng lẽ lại không được thông báo trước khi thu hình? Nếu có gì không đúng, chắc chắn tác giả đã hiệu đính lại rồi, và một chút ngỡ ngàng, thất vọng thoáng qua… cho đến khi do tình cờ thấy tên nhạc sĩ Phan Ni Tấn xuất hiện trong trang nhà Phố Núi Pleiku, tôi vào đọc, qua ba bài thơ và bản nhạc mà anh phổ biến tôi như tìm lại được nỗi cảm xúc như đã có trước đó từ ý thơ đến âm giai bài hát, và khi được anh cho biết là hầu như tất cả sáng tác của anh đã bị mất hết sau năm 1975 trong đó có cả ba bài ca học trò, tôi mới thực sự tin anh chính là tác giả.
Những năm sau 30/4/75 cùng với chính sách xóa sạch mọi tàn dư văn hóa của miền Nam bằng cách tịch thu, thiêu hủy các sáng tác phẩm bất kể thể loại nào, các văn nghệ sĩ cũng đồng chung số phận như tất cả quân cán chính khác bị bắt bớ, tù đày và không còn được sáng tác, mà vẫn không ngăn cản được việc lan truyền âm ỉ ở mọi chỗ, mọi nơi, ra đến tận miền Bắc nhất là ca nhạc, nên để phản ứng lại họ bèn tung ra một quan niệm nhằm hạ giá các sáng tác cũ bằng cách gán cho loại này là nhạc “sang”, loại kia là”sến”, nhạc “quê hương”, nhạc “vàng”, nhạc “phản động”, nhạc “ủy mị”, “ướt át”, “sướt mướt ” v.v… có người cũng hùa theo mà quên đi rằng để đi được vào tâm hồn người nghe, ít nhiều những sáng tác phẩm ấy cũng đã đồng cảm, chia xẻ một khoảnh khắc nào đó trong đời sống để nó trở nên một dấu vết, một ký ức, một kỷ niệm không phai trong tâm hồn, với suy nghĩ ấy mong rằng tác giả ba bài ca học trò cho phổ biến lại sáng tác này của anh mà tôi chắc rằng không chỉ là mong muốn của riêng tôi .
Nam Chi
NY 4/2011
Nguồn: Phan Ni Tấn chuyển bài tác giả gửi


















