Võ Công Liêm
Hằng năm vào đầu tháng 8 hay giữa tháng 9 thế nào cũng có mưa to, gió lớn, có nhiều lúc cả nữa tháng không dứt mưa, thúi đất, thúi đai, làm cho làng Xuân Thiên trở nên làm ăn khó, mưa triền miên, chưa kể mấy ngày qua, những trận mưa núi, lôi theo bao ghềnh thác ở thượng nguồn trút xuống đồng bằng, dòng nước cuốn mạnh mang theo đất phù sa trộn vào nước làm cho con sông vẩn đục một màu, nước cuồng cuộn chảy với những cành khô, củi mục tràn ngập cả dòng sông. Dân trong làng đứng nhìn nước chảy, kẻ vớt củi khô, kẻ thả lưới bắt cá trông cảnh tiêu điều, buồn thiu; mấy ông già đứng nhìn một lúc, lắt đầu quay gót về nhà. Bầu trời xám đen, gió heo heo lạnh, cảnh nghèo ở làng Xuân Thiên trở nên nghèo thêm. Điều nầy chẳng phải ngạc nhiên vì thường năm đều thế, có những năm lụt lớn kéo phăng đi mấy căn nhà lá ven sông, con chó, con gà đứng cạnh gia nhân trên chóp nhà, dương tay kêu cứu, chỉ thấy một nửa cái nhà trên mặt nước, trôi khoẻ ra biển…năm nay được thế là trời thương. Họ bấm bụng kiếm chén cơm, chén cháo qua ngày đoạn tháng.
Gia cảnh Bành thuộc hạng bần cố nông. Ngày còn mẹ thì xoay qua, xở lại rồi đắp đổi qua ngày. Nhìn lại; thì nay vất vả bội phần. Tư Vững, cha Bành tiếng là con nhà nông, nhưng đâu có đất mà nông với ruộng, rốt cuộc chỉ đi làm thuê tối ngày, may giữ được cái chân “coi trong, ngó ngoài” ở nhà điền chủ Doãn, tính công cơm ăn chứ không tính công tiền, nhịn ăn để còn dư chút đỉnh đem về cho Bành và Chót, em gái Bành sau Bành cả 5 tuổi. Mẹ Bành chết; Chót mới hai tuổi. Cha Bành biến thành gà trống, Bành đi mót luá mùa hạ, đông thì chạy xuống sông thả câu, thả lưới. Cảnh nhà Bành bi đát nếu gặp phải lụt lội.
Năm 75 thống nhất đất nước, năm sau thì cha con Tư Vững rời Xuân Thiên về làng Mậu Tài lập nghiệp, nói là lập nghiệp cho ra vẻ kinh bang tế thế chứ thực ra dời về đây theo lời thỉnh cầu của ông bác trong họ; về đây để coi sóc cái phần đất hương hoả, với lại hương khói nơi thờ phượng tổ tiên, ông bà. Vững mừng trong bụng; chớ ở cái đất Xuân Thiên không ăn trộm thì cũng ăn mày. Đi thôi! Vững dựng lều ở đó và xây dựng cuộc đời mới. Từ cuộc sống đổi thay, nhờ có hoa mầu trong khuôn vườn mà đánh đổi được bác cơm cho sáp nhỏ. Vững an tâm phần nào và nghĩ xa về đường lợi danh, cái máu trong người Vững ưa a-dua để mưu cầu, chớ chẳng để tâm mà làm hại ai. Dần dà xóm làng thấy được cái tư chất của Vững đâm ra cảm mến. Nhờ làng trên xóm dưới tín dụng khả năng của Vững cho nên ông ta làm ba cái việc chạy giấy tờ cho dân làng Mậu Tài mà kiếm được đồng vô, đồng ra.
Vững có 4 đứa con, 3 trai, 1 gái đời vợ trước. Một thằng có vợ con, ở tận trong Nam, một thằng đi lính nghĩa quân, đóng chốt ở xã, lâu lâu về thăm nhà, ngồi chưa nóng đít lại bỏ đi ngay, còn lại Bành và Chót. Bành bây giờ 17 tuổi, học chưa hết tiểu học, Bành ra tay đi kiếm cơm, nuôi thân đở cho cha và em. Bành trở thành thợ hớt tóc dạo, nhờ anh Côn ở trong làng dạy cho mấy chiêu cắt tóc, cạo đầu, váy lỗ tai… trước sau có mấy ngày Bành “ra trường”. Đóng cái thùng gỗ tạp vỏ đạn cạt-bin, có tay xách bằng da nịt, 1 cái tông-đơ, cái kéo, cái lược, anh Côn cho không để xuất quân, còn cái dao cạo hiệu gi-lét bằng thép Tây thì Côn cho mượn một tháng, làm ăn ra thì phải trả lại. Cái khăn trải bàn, ủ màu, chị Sắn tặng để khoát lên khách mỗi khi cắt tóc, cạo râu. Bành mừng lắm và ngày mai khăn gói lên đường “mở hàng”.
Sáng sớm chưa dứt tiếng gà gáy , đã thấy Bành ngồi đun nồi khoai luộc, ngọn lửa rực lên thấy rõ gương mặt Bành thau lại, một phần ốm vì thiếu ăn, một phần lo lắng sự nghiệp, nếu một tháng mà không thu hoạch cao thì cái dao cạo thép Tây sẽ không còn để hành nghề. Bành có cái máu liều. – Kệ! không đủ tiền mua thì năn nỉ với anh Côn, nới cho thêm một tháng nữa. Ngồi nghĩ quẩn thì mặt trời ló sáng. Bành gói 3 củ khoai vào lá chuối, bỏ vào xách vải, còn 3 củ dành lại cho cha và em. Bành rón rén đẩy liếp phên cửa lá, bước ra ngoài. Bành đi khoan thai và nghe tiếng chó sủa sau lưng. – Mẹ! ”mơi-xưa” mà chó sủa chận đầu, chắc mạt cả ngày. Đi chừng đâu nửa tiếng đồng hồ thì nghe có người gọi. Bành an tâm.
– Hớt tóc phải không? Khách gọi.
– Ủa; đâu có rao, có hò như chè, như cháo mà biết mình hớt tóc. Bành suy nghĩ.
– Hớt nhiêu cái đầu. Khách hỏi.
– Dạ; cho mấy cũng được. Bành nói.
Khách và thợ trao đổi dăm ba điều lấy lệ. Đoạn Bành mở thùng lấy đồ nghề ra lau trước khi hớt. Bành ngờ ngợ điều gì cho nên dáng dấp trông vẻ vụng về, lúng túng.
– Không có gương soi sao? Khách hỏi.
– Dạ không. Bành nói.
Bành ra tay đi đường lược, lược lên , lược xuống vài lần cho tóc nằm êm rồi nhắp tông-đơ, nghe xành xạch. Ngưng tay buột miệng hỏi khách: – Hớt như thường, hay hớt cao. Khách ừ…ừ; hiểu ý khách cho tông-đơ lướt. Đang gò mình trong tay lược, tay kéo, bất chợt thấy bên hàng rào một thiếu nữ cập kê trăng tròn đang phơi áo quần trên sào tre. Bành tự nhiên thấy vui, vừa mở hàng gặp phải khách qúi, vừa thấy gái đẹp để mắt tới. ”Cúp” một cái đầu, váy 2 lỗ tai, vặn vẹo cái cỗ nghe răng rắc, thế mà gần cả tiếng đồng hồ. Rảy khăn khoát, xếp đồ nghề cho vào thùng, đưa mắt nhìn qua bờ dậu xem chừng người đẹp có xuất hiện không. Đôi mắt Bành như mơ vào cõi mộng.
– Nè! cầm lấy. Được chưa? Hôm nào cho thêm. Khách nói.
Bành cầm tiền nhét vào túi, xách cái ghế đẩu vào nhà và lấy chổi quét đám tóc nữa trắng, nữa đen đổ rải rác trên thềm nhà. Vừa quét, mắt liếc qua hàng dậu bên kia đường. Bành ra khỏi nhà khách, không ngoảnh cổ nhìn lui nhà khách mà nhìn về phiá hàng dậu thưa của người con gái mà lần đầu Bành đã cảm thấy.. . phải lòng.
Mặt trời lên cao khỏi đọt tre, mồ hôi rã ra trên mặt Bành, chàng khát vì cơn nóng đầu hè, lại thêm phần đói. Ngồi dưới gốc cây bàng ăn ba củ khoai, hớp miếng nước chè lá để dành hôm qua. Bành thấy khoan khoái nhẹ nhàng, đôi mắt ríu lại muốn dỗ giấc ngủ ban trưa dưới cội cây già. Bành đứng dậy và chuẩn bị lên đường.
Làm ăn gần cả tháng, khách quen đã biết đến, không rao rêu người ta đều biết Bành hớt tóc dạo. Ngoài thùng gỗ, viết bằng mực học trò 5 chữ ngoằn ngoèo liền nhau “hớt óc”, màu mực bạc theo thời gian cho nên không đọc rõ chữ. Bành cũng chẳng cần sơn quét làm chi, khách nghe tiếng là được. Hôm nay Bành ê ẩm trong người, quay về nhà sớm hơn thường khi, về nghỉ khoẻ để mai còn sức đi làm, tính thế cũng hay; còn không bịnh đổ xuống thì lấy chi ăn. Bước vào nhà; Bành phát giác tiếng rì rào trong buồng con Chót, quay đầu xuống bếp, bếp lạnh ngắt. Cũng chẳng nghe động tĩnh của Chót. E có người lạ mặt vào nhà. Có chi trong nhà mà lạ với quen. Bành nghĩ thế; nhưng không ngại. Lén nhìn qua vách phên, có mấy lỗ hổng. Bành thấy Vững cha mình, trần truồng bên cạnh người đàn bà, tóc đổ xuống mặt khó nhận ra y thị là ai. Bành rùng mình, quảy gót bước ra vườn chuối, trải khăn, kê đầu lên thùng đồ nghề, gác tay suy nghĩ , mắt ríu lại, Bành chơi một giấc vô tư dưới bóng râm của mấy bụi chuối rậm, có lẽ; Bành mệt cho nên ngủ ngáy ò ò nghe choán cả khoảng không, ngủ thẳng giấc, gần xế bóng, chụi mắt , đứng dậy đi thẳng vào nhà. Lúc nầy thấy Chót ngồi thổi cơm. Chẳng phải hỏi Chót điều gì, ngang qua buồng, liếc mắt nhìn vào thấy chiếu, gối trải thẳng không để lại một dấu tích gì. Bành có cảm giác như nhà chứa, nghẹn ngào không nói ra lời. – Thây kệ; việc ông, ông lo, việc mình, mình lo. Bành nghĩ trong bụng. Xuống bếp bới cơm ăn, ngồi rút chân lên chiếc ghế đẩu ngả mầu, ăn xong, húp miếng nước chè nguội, miệng nhai mấy lát gừng. Ngẩn đầu nhìn trời, rồi lại nhìn quanh, cảnh vật như thường chẳng có gì lạ hơn, Bành quay về với hình bóng người đẹp phơi áo quần hôm đi “mở hàng” và hớt ”mời-xưa”cho ông Luận. Từ đó đến nay, mỗi khi đi ngang qua nhà nàng là đưa mắt nhìn vào kiếm một chút hy vọng. – Thế nào rồi cũng tìm hiểu thôi. Bành suy nghĩ. Đang suy tư về giấc mơ tình ái thì thấy Vững đi về, cả hai chả phải chào hỏi. Vững đi thẳng vào nhà, lên đèn và nói những gì với Chót. Cha con trông vui hơn mọi khi.
Mờ sáng Bành đã ra khỏi nhà, lầm lủi đi trên con đường mòn kéo ra lộ. Sương còn giăng mờ. O Thí mở hàng sớm, mùi cà phê rang thơm lừng, Bành ghé lại làm một cốc cho tĩnh người. – Kệ; tới đâu tới, ăn cái gì lót dạ rồi mới tính chuyện cắt với hớt. Bành hạ quyết định.
– O cho một diã xôi thịt hon đi o. Bành nói.
Ăn uống xong, ngồi lì trên cái đòn, nhìn xa vời về cuối chân trời, trời rạng sáng, người qua, kẻ lại mỗi lúc mỗi đông, xe khách ầm tiếng động, đám phu xe kéo, xe xích lô ào tới, quán O Thí hết chỗ ngồi. Bành chưa chịu đứng dậy đi hành nghề. Có gì chăng ? Bành đến gần O Thí trong dáng rụt rè, lấm la lấm lét như mèo giấu cứt.
– O cho thiếu bửa ni ? Mấy bửa rầy ế quá. Bành nói.
– Nhớ đó nghe ! Liệu hồn mà chạy làng, tao cạo đầu cho coi. O Thí nói.
Thoát ra khỏi quán O Thí, Bành cảm thấy như trút gánh nặng, thở phào nhẹ hẳn ra. Bành hướng con đường trước mặt mà đi, ngong ngóng vào khách may ra kiếm được ít nhiều mà tính chuyện mua lại cái tông-đơ anh Côn cho muợn và trả nợ cà phê, cà pháo cho O Thí. Cúi đầu đi trong tư thế trầm tư, ngẩn đầu nhìn tứ phiá tưởng như thất lạc cái gì. Bành đi thẳng vào bụi cây rậm, vạch quần đứng đái. Bành cảm thấy nhẹ nhõm và tiếp tục đi. Gần đến nhà ông Luận, thấy ông dang tay, múa ngón tập Tài Chi. Bành đứng lại xem. Luận ngừng tay, ngắt đầu hỏi Bành vài câu bình thường.
– Hôm nay có hớt tóc hay không mà đứng nhìn đời thỏa mái thế ? Ông Luận nói.
– Hớt chớ! không hớt lấy chi ăn ngày nay. Bành nói.
– Sớm giờ chặt được mấy cái rồi? Ông Luận nói.
– Có cái nào đâu; ế rề. Ông hớt không? Bành nói.
Luận ngồi ngay ngắn trên chiếc ghế đẩu, mắt lim dim, cúi đầu như tượng Phật. Bành lấy khăn quàng, búng quanh người ông Luận một vòng xoáy ngang người, túm gọn trong tay, cột vào cổ vừa đủ thấy vành tóc sau gáy, Bành thuộc bài, cho nên quen tay hớt; bởi ông Luận muôn đời chơi một kiểu cho nên không lạ gì đối với chàng hớt tóc dạo nầy. Thấy vui trong lòng, Bành cất tiếng hát giữa lúc hớt tóc cho thêm phần sinh khí. Bành chẳng phải lấy giọng, chẳng phải đờn địch, dương cổ cất cao giọng hát. Ông Luận trầm ngâm nghe Bành hát, tiếng ca cao vút, có khi trầm, khi bổng, luyến láy có thua gì ca sĩ chuyên nghiệp. Ông Luận vừa nghe vừa rung rung đôi chân coi bộ khoái chí, quay đầu nhìn Bành.
– Rứa thì mi học hát hồi nào, mà ca mùi rứa? Ông Luận nói.
– Nghiệp dư thôi mà! tiền đâu mà đi học hát. Bành nói.
Bành nghe ông khách đụng đến ngón nghề thầm kín của mình, đắc ý, rút ra bài ruột, ngắt ngắt cái đầu, lấy giọng, ca bài ”Quen Nhau Trên Đường Về” của nhạc sĩ Thăng Long. Bành uốn giọng để làm sao ca cho giống ca sĩ Duy Khánh, mà Bành mê ông ca sĩ nầy. Hắn gò tiếng hát. Vào bài nghe nhẹ nhàng, nhưng đến mấy câu có dính dáng tâm trạng mình, hắn rống to, cốt để cho người đẹp bên hàng dậu nghe cái tài tỏ tình của mình :
“ Chiều nay có phải em…ra…miền…Trung ”
“ về thăm quê mẹ cho anh…về…cùng ”
“ rồi ta sẽ đi chung chuyến tàu về đến sông…Hương núi Ngự… … …”
Dứt bài ca; ông Luận đã-đời-con-cóc đứng dậy vỗ tay, vỗ đầu Bành, cười nói thân mật với hắn, ông đâu ngờ cái thằng hớt tóc dạo mà ca hát chuẩn mực như thế. Ông sướng là phải; vì ông yêu âm nhạc đã lâu cho nên cũng lõm bõm biết cách đánh đờn, hoà âm qua cây đàn gi-ta mục nước mồ hôi tay và có dịp làm thầy dạy nhạc cho tân khoa hớt tóc nầy. Biết đâu hắn thành danh ca hát thì cái thùng gỗ đựng tông-đơ nầy liệng xuống hố một ngày nào, mà mình thơm lây với thiên tài hớt tóc…
– Thôi được! Cứ đi kiếm cơm với cái tông-đơ. Rồi tao dạy cho mầy hát đúng điệu nhà nghề. Mầy hát được, tao giới thiệu đội văn nghệ huyện cho mầy trổ tài. Mầy giờ mấy tuổi rồi nhỉ ? Ông Luận nói.
Qủa thiệt; trời có tai mắt, người đẹp đứng sau bụi rào, nhấp nháy đôi mắt và hé nụ cười giao tình với Bành. – Ui chao! Sao mà sướng như ri hè. Bành quên hết, quên luôn cả tiếng hát của mình, quên luôn chuyện đi kiếm cơm. Hứng khởi, buột miệng hỏi thầy Luận đôi điều về lý lịch người đẹp bên song.
– Cái O bên nớ, con ai rứa thầy Luận ? Bành nói.
– Hắn đi ở, giúp việc cho bà Thừa Cảnh. Chừng 17, 18 gì đó. Nó ở từ khi 10 tuổi.
Mầy ưa nó sao hỏi. Khoan nghĩ lung tung. Lo làm ăn và tập hò hát cái đã. Chuyện đó mấy hồi. Ông Luận nói.
– Thầy cho tiền hớt. Bành nói.
Không ngờ ông Luận mở hàng mà khách gọi không ngớt. Thằng Cu Cưỡng phải ngồi chờ tới phiên hắn. Bành kiếm khá tiền hớt cho ngày hôm nay.
Chị Sâm ngồi bán gạo ở chợ Hôm, làng Mậu Tài đâu chừng gần 10 năm nay. Mụ Bẻo; mẹ chị Sâm chết, để lại 3 thúng gạo, một thúng gạo-hẻo-rằng, nửa thúng gạo đỏ, một thúng gạo ruộng và một cái khảm đựng nếp. Tính đến nay thì chị cũng đã ngoài 40, nhưng còn xuân sắc, tóc còn đen mượt, hai hàm răng trắng đều, ít cười nhưng cười thì không nói nổi, quyến rũ và lại đưa dâm, cọng thêm trên gò má cái nốt ruồi đen duyên dáng; ấy mới chết! thế mà độc thân, không thấy trai gái gì cả, cứ ngoan ngoãn với phiên chợ. Vững thường hay ra đây mua gạo, có bửa Chót ra coi hàng cho chị Sâm đi công chuyện. Sâm đâm ra thương Chót như con. Cha con Vững ít nói, lại ít để tâm vào ai và ai trong làng Mậu Tài cũng biết Vững vợ chết ở thế nuôi con. Bà con cũng chẳng động lòng thương xót, vì lẽ Vững đã luống tuổi, tóc đã điểm sương; 58, 60 rồi yêu với thương cái nổi nào nữa. Vững biết phận mình nên ngậm mổ cò bấy lâu nay. – Có ưa thì ưa hồi mạ nó chết ít năm, cho đở tay thay việc. Giờ già, lên mốc ưa ai bây giờ. Vững nghĩ cũng đúng. Thằng Bành bây chừ 20 tuổi, con Chót 16 tuổi, trổ mã ra con gái rồi. Nhìn cái gia cảnh như thế; thôi thì cúi đầu làm ăn. Quan hệ làm chi cho thêm khổ. Vững giữ một lòng sắt son với vợ con.
Ngờ đâu tình cảm mua bán giữa Sâm và Vững mỗi ngày mỗi thắm thiết. Lại thêm cứ vô ra với con Chót, mai nhờ cái nầy, mốt nhờ cái nọ, riết trở thành quen, không còn lạ với quen, thấy sao nói vậy, chả e dè, cả nể gì cả; thấy cảnh nhà Vững bửa no, bửa đói rồi đâm ra thương hại con Chót. Có lần Vững ra chợ đong gạo. Sâm chận đầu Vững.
– Anh đem mớ cá nục về nói con Chót kho mà ăn tối nay. Cửa nhà sao mà bầy nhầy thế, bửa ăn, bửa không. Sâm nói.
Vững không nói một lời, tay ôm rổ cá, tay xách bị gạo đi về cuối xóm nhà ở. Gió thổi vào hàng cây bên đường nghe rì rào, bóng chiều xuống dần, bầy vịt trời tung cánh giữa lưng trời với tiếng kêu thất thanh, gây thêm buồn cảnh thôn dã. Cuộc đời có những điều kỳ lạ; khi trẻ trông có ai để tâm thì chẳng có ma nào, khi già gần xuống lỗ thì cái không mong nó lại đến. Thật oái oăm! Thế rồi cái gì đến là đến, có chống cũng không được. Sâm, Vững cả hai thầm yêu trộm nhớ. Hò hẹn ở căn nhà lá của Vững, làm tọa độ. Điều đó chẳng bắt nguồn từ đâu cả mà xẩy ra như sự cố, lại vừa ngẫu nhiên. Xong chuyện ai về nhà nấy. Xóm chợ Hôm cũng chẳng có ai đánh hơi cuộc tình nầy. Sanh hoạt bình thường, Sâm bán gạo. Vững chạy công văn cho dân làng Mậu Tài. Bành lúc nầy chăm vào vụ hò hát hơn là tông-đơ với kéo lược. Chót có lúc ở nhà, có lúc ngủ lại nhà với dì Sâm. Vững chả thắc mắc ở với đi của mấy đứa con. Từ ngày gần gủi với Sâm, nhiều đêm Vững trằn trọc khó ngủ như hồi thanh niên hay như hồi bận bịu mấy đứa con với Niệm; vợ cũ. Vững nghĩ vớ vẩn, bỗng nhớ tới Sâm; vì trong người Sâm có cái gì lạ hơn đời. Đoạn rớt xuống giường ngủ như trẻ con.
Mặt trời chưa trèo lên đọt cây, đã thấy Đấu lén xén đi vào nhà; nhà im hơi, Bành chắc đi hớt rồi, Chót ra ngoài quán dì Sâm ? Đấu chống cửa cho nắng luồng vào nhà, nghe rột rẹt Vững mở mắt, ưỡn người ngáp một cái dài, nhận ra Đấu, nói ấm ớ trong họng.
– Về làm chi sớm rứa? Vững nói.
– Có chi mô! Ghé thăm nhà thôi. Đấu nói.
Ra khỏi chõng tre, Vững đi ra ngoài , lấy gáo dừa múc nước súc miệng, nhổ phạch xuống đất rồi quay vào trong. Đấu ngồi thừ người trên chiếc ghế đẩu, đút điếu thuốc lên môi, rít một hơi dài trong dáng tư lự. Hình như hắn muốn nói điều gì với cha, Vững ngạc nhiên cái sự hiện diện của Đấu hôm nay, mấy khi mà về thăm nhà sáng sớm như thế. Khi nào cũng nghe bận ở xã đội. Sao bửa nay lại ngồi đờ người ra thế nhỉ. Ông chẳng buồn hỏi lý do. Đi thẳng vô bếp đun ấm nước chè. Lửa và khói thi đua làm việc cho kịp yêu cầu người uống. Vững rót nước vào hai cái chén ăn cơm, đẩy qua cho Đấu một chén. Ông ngẩn đầu nhắp chén chè nóng. Rồi nhìn Đấu.
– Bửa ni ngoài xã không có chi làm sao? Người cha nói.
– Thiếu chi việc ngoài đó, tuyển thêm nhận sự để làm. Người con nói.
Đấu là anh của Bành và Chót. Cừ là anh cả; vợ hai con sống vùng kinh tế mới trong Nam. Năm khi mười hoạ mới về thăm quê một lần. Vững xem như thế là xong, chỉ còn lại ba đứa cận kề. Đấu bây giờ 27 tuổi mà chưa nghe nói chuyện vợ con. Vững cũng quan ngại điều nầy, nhưng biết nhắm vào ai, với cái gia thế như thế nầy. Thôi thì mặc kệ, tới đâu hay tới đó. Khôn sống, bống chết! Mệt xác; phải lo hoài.
– Tui tính lấy vợ. Cha nghĩ sao? Đấu nói.
– Ừ thì lấy đi. Mi chừ cũng gần ba mươi rồi, chờ chi nữa. Ưa con ai? Vững nói.
– Cha biết mụ Đại? Mụ có đứa con nuôi tên Lượm. Con đó với tui ưa nhau lâu rồi.
– Muốn cưới con Lượm, nên tui vô hỏi cha có chịu không ? Đấu nói.
Vững ngồi rút chân lên ghế, vò đầu, cứ ngồi cứng thế làm cho Đấu sanh bực. Muốn văng ít câu gắt gỏng để đi thôi. Người cha liếc nhìn thằng con không mấy vừa lòng, mở miệng nói như lời than thở, may ra thằng con nó hiểu cho mình đôi chút.
– Cưới với hỏi, lấy đâu ra tiền mà cưới vợ cho mầy. Người cha nói.
Đấu tưởng cha khước từ tình yêu hôn nhân của Đấu, hắn cáu, lộ lên mặt. Tính chưởi đổng một tiếng mà đi cho khuất con mắt. Nhưng lại thôi; xem chừng cha có muốn nói gì thêm thì khi đó Đấu mới có quyết định dứt khoát. Vững nghe tin nầy thì mừng, mừng cho mình mà mừng cho Đấu có đôi có đũa thì dẫu Vững có nhắm mắtVững mới yên lòng. Khổ thật! Nghèo gặp eo, mượn ai bây chừ trời. Vững quẩn trí.
– Thôi được! hai đứa bây ưa nhau, tao không cản, nhưng ngặc một cái nhà mình có cái gì để đổi lấy tiền mà cưới với hỏi. Nghĩ coi; xưa giờ từ ngày mạ mầy chết, có gì trong cái nhà nầy. Trên răng dưới dế chẳng còn chi hơn. Từ từ để rồi tao tính. Người cha nói.
Đấu đứng dậy lặng lẽ ra về, bỏ lại người cha già với căn nhà tranh, vách đất, hắn vừa đi vừa suy nghĩ về cuộc hôn nhân của mình với Lượm. Nghĩ lại thấy cha mình nói đúng. Lượm đâu có hiểu tình đời, Lượm đâu có hiểu cái miệng thế gian. Thời nay cái gì cũng tiền, đồng tiền đi trước mực thước theo sau. Vậy tính sao cho thuận đôi bên. Đấu phải gặp Lượm đêm nay để giải bày tâm sự. Suy đi nghĩ lại. Đấu bỏ ý định gặp Lượm. Hạ hồi phân giải. Đấu về tới xã đội thì trời đã vào trưa, thấy anh em đồng đội đã cầm chén đũa. Đấu nhanh tay bốc hai củ sắn nhét vào miệng, nhai như kiểu trâu nằm nhai lại trong chuồng, Đấu chậm rãi trong suy nghĩ.
Ông Luận tuổi cũng ngang với Vững. Nhưng Luận vững vàng hơn, có nhà cửa, ruộng vườn cha ông để lại cho nên có phần sanh lợi, được cái vợ ông Luận giỏi lèo lái hết thảy mọi chuyện trong ngoài, từ đám tiệc cho đến việc nội ngoại. Ông bà Luận có 2 con, một trai, một gái đều lập gia thất. Ông bà Luận có cháu; nội ngoại đề huề. Nhờ yên hàng vô sự cho nên Luận đâu có lo lắng gì. Từ ngày đi học tập, học đâu chừng mấy tháng thì được hồi hương. Nằm trong chế độ cũ, Luận đi lính, đóng lon hạ sĩ nhất, thuộc đại đội quân nhu, tiếp liệu, có mấy khi ôm súng ra chiến trường, ông ôm nhu yếu phẩm về nhà thì có. Ban quản giáo cho ông có tinh thần cách mạng, được hưởng lượng khoan hồng của Đảng và Nhà Nước, cho nên Luận được hồi hương sớm hơn những người cùng cảnh ngộ. Nay tuổi già, chả làm chi nên chuyện nên thường khi ôm đàn gảy nhạc tiền chiến để nhớ về một thời mộng mơ với Nguyệt; vợ Luận bây giờ. Ở Mậu Tài khá lâu so với dân tứ phương tới đây lập nghiệp, nhờ có thằng Bành mà làm cho ông hết cô độc, khỏi phải vào ra một mình không bè bạn.
Ông Luận bây giờ có hai việc phải làm, dạy nhạc cho thằng Bành, vì cái lòng đam mê văn nghệ của ông. Bắt nhịp cầu cho thằng Bành với con Chanh con ở nhà bà Thừa Cảnh vì cái tình người của ông đối với mọi người. Đó là hai chuyện ông để tâm.
– Mai mầy bỏ thùng đồ nghề lại đây. Đón xe đò về huyện với tao. Tao quen ông bạn trưởng ban văn nghệ huyện, tao giới thiệu với ông về mầy có giọng ca triển vọng.
– Bành! ráng tập dợt trước khi đi. Nhớ là hát đúng nhạc điệu và không quên lời, chữ nào ra chữ ấy, chớt chát không được đâu. Có vậy thì người ta thu nạp mầy nhanh và từ đó mầy trở thành công nhân viên nhà nước, đâu còn làm nghề hớt tóc dạo nầy nữa. Mầy nghe tao dặn dò không Bành? Ông Luận nói.
– Dạ nghe rồi thầy. Được thì tốt mà không được cũng chẳng sao cả. Thầy ăn nói sao cho tui với con Chanh yêu nhau suốt đời là tui sướng thôi. Còn hò hát thì khi nào hát chẳng được. Hát hay; ở trong bụi người ta cũng tìm đến. Bành nói.
– Nè! Dặn thêm cái nầy nữa; ông trưởng ban có phỏng vấn thì lựa lời mà nói. Có hỏi tên tuổi thì nhớ nhắc cho ông biết nghệ danh của mầy. Cái tên tao lựa cho mầy hôm trước, gần gần tên ca sĩ Duy Khánh. Ông Luận nói.
Từ ngày bắt múi hò hát với ông Luận, Bành xách thùng đồ nghề đì hớt dạo thấy có phần chai lơ lủng lẳng, chả có để tâm cho mấy. Hớt tóc là nhiệm vụ sanh nhai, cạo, hớt cho người ta mà hồn để đâu đâu, tơ tưởng đến Chanh, có lần cạo suýt cắt da đầu người ta luôn. Cái đối tượng duy nhất hiện nay của Bành là chinh phục cho kỳ được con tim của Chanh và mổ ra xem trong tim của Chanh ngọt hay chua. Bành cho đó là sự thành công hơn thành công trong chuyện hò hát. Hò hát là thiên phú, bẩm sinh, tình yêu thì có ai gọi là thiên tài tình yêu, ngoại trừ có ngón nghề độc chiêu làm cho đàn bà hãi, điều ấy thì dể thôi! Cho nên Bành nghĩ đến tình hơn là nghĩ đến hò hát.
Được giấy mời của ban văn nghệ huyện. Bành đưa lên cho thầy Luận xem và xin ý kiến. Ông Luận mừng lắm. Mừng cho ông là mình làm thầy dạy nhạc có bài bản, mừng cho Bành được tuyển chọn như đậu kỳ thi. Cả hai dữ kiện đó làm cho ông Luận phấn khởi vô cùng.
– Mầy về huyện nhận công tác thì nhớ xem cái nghệ danh có ghi rõ không nghe! Thế nào họ cũng bố trí mầy về phục vụ ở thôn, xã Mậu Tài. Tao nghe phong thanh xã nhà muốn thành lập đội văn nghệ để trình diễn dịp lễ 2 tháng 9 ở chợ Hôm. Huyện đồng ý nhưng thiếu thành phần chủ lực. Mầy nhớ nghệ danh của mầy rồi chớ? Ông Luận nói.
– Dạ nhớ rồi thầy. Nghệ danh tui là Trọng Khánh. Nghe sao cứng quá thầy?Bành nói.
– Thì cứ thế! Nhắc Duy Khánh người ta nhớ Trọng Khánh, đâu mấy hồi. Mầy tin tao. Đến khi con Chanh biết mầy là Trọng Khánh, nó còn chết mê, chết mệt nữa là khác. Mầy xưng hô với người yêu, cái tên Bành tao thấy tục quá. Thầy Luận nói.
– Không lẽ ăn ở với nhau cứ kéo cái nghệ danh ra thưa với thốt. Nghe sao đặng. Tui nghĩ cứ giải bày, thì cái tình mới thực với nhau, xấu chi cái tên cha mẹ đặc. Bành nói.
– Ừ! Tao nghe mầy nói cũng phải. Cái đó tùy mầy ứng xử. Mà tao chưa biết con
– Chanh có ưa mầy không? Thầy Luận nói.
Hai thầy trò cảm thấy tự mãn, kéo nhau đi nhắp một tách cà phê phin đá ở quán O Thí cho sướng cuộc đời. Nắng trưa dội xuống hai mái đầu đen trắng, khó mà nhận ra ai già, ai trẻ giữa chợ đời. Làng Mậu Tài dân cư đâu có nhiều mà tình thì đủ thứ chuyện. Tuy thế vẫn đem lại niềm vui trong cuộc đời này. Ai khéo chê ai !
Đêm văn nghệ ở chợ Hôm đông người đi xem, nhạc có, kịch có, cải lương, hát bội có, xum xuê vô cùng. Tiếng loa phóng thanh vẫn còn rè, e làm giảm cái hay của giọng ca. Thầy trò Luận lo lắng điều nầy. Bành mong có sự hiện diện của Chanh. Đây là dịp may hiếm có dành cho Bành. Nếu Chanh phải lòng chàng qua tiếng hát. Chắc chắn Bành thành công đêm nay. Bành vững tin đôi mắt nhấp nháy của Chanh.
Trong người Bành có cái ”gen” văn nghệ chăng? Vững có 4 đứa con mà có đứa nào như Bành. Đâu có học hành bao nhiêu, đâu có biết chi về nhạc, về ca thế mà phát tiết một cách bất ngờ, hai thằng anh thì củi mục chấm mắm nêm, sai đâu đánh đó, đâu có biết chơi, chỉ quanh co trong hủ. Còn Vững thì coi như mù với văn nghệ, văn gừng, bẻ hạt gạo chưa bể làm đôi. Thế thì sao lọt ra thằng Bành có lắm nghề mà không cần qua một quá trình học tập. Đúng là cái di truyền đời trước để lại cho Vững mà Vững đâu hay! Ngay cả Bành cũng chẳng biết tê mô. Cứ cho là mình có tài. Thế mới ngụy. Ông thầy Luận cũng không biết. Không biết tại sao Bành lại đâm ra thương Chanh. Bành có con mắt và có tri giác vì có vốn văn nghệ nên thấy cái đẹp khám phá đó. Bành chẳng phải quan tâm Chanh xuất xứ từ đâu. Yêu là phải được. Để coi !
Mắt Chanh nhấp nháy, mỉm môi cười sau khi Trọng Khánh dứt bài ca “Trăng Rụng Xuống Cầu”chẳng khác gì Duy Khánh. Đồng bào ta đêm đó vỗ tay quá trời và yêu cầu Trọng Khánh “bít” cho một bài nữa. Dưới ánh đèn pha sân khấu, Bành trông điễn trai nhờ chơi một bộ đồ vét, hơi rộng một chút nhưng bề thế lắm. Bành chọn ngay một bài ca của Duy Khánh, để nhắc rằng nhớ Duy Khánh thì nhớ Trọng Khánh. Ca khúc “Tình Quê” được giới thiệu thì khán giả mộ điệu đứng dưới đất vỗ tay, reo mừng.
Không một ai chê giọng ca của Bành, vợ chồng thầy Luận hớn hở, Chanh sung sướng với người tình trong mộng, Đấu, Chót, dì Sâm hảnh diện có ca sĩ nổi tiếng trong làng. Đêm hôm ấy Vững nằm nhà chờ Sâm và Chót đem tin vui về.
Vãn hát, đèn đóm tắt ngúm, trả lại bóng đêm cho chợ Hôm. Chỉ còn ngọn đèn vàng sau hậu trường với đám ca múa, bên ngoài có một vài thiếu nữ ái mộ giọng ca, còn thấp thỏm chờ đợi để thấy ca sĩ đoái hoài cho ít tiếng chào hỏi. Trong đám người xúm lại hỏi han, Bành không thấy bóng Chanh. – E nàng bỏ về rồi thì phải. Bành nghĩ như thế. Nhận hoa và mấy gói quà của xã, của đội văn nghệ gởi tặng. Bành cầm trong tay mà lòng buồn vời vợi bởi nhớ người mình thầm yêu. Trên đường về, ghé lại nhà thầy Luận, bất giác thấy Chanh đứng gầy trong bóng tối bên hàng dậu.
Tình cảnh như thế không nhẽ ngoảy lưng đi luôn. Bành tiếng lại gần. Dưới ánh trăng lưỡi liềm đầu thu; Bành thấy đôi mắt nhấp nháy, nụ cười hiền hậu trên môi Chanh. Bành mỉm cười, lặng câm không nói. Cả hai thấy rõ mặt nhau.
– Anh hát hay ! Chanh nói.
– Rứa có đi coi sao? Đợi tui trả bộ áo cho thầy Luận rồi tui trở lại. Bành nói.
Vào nhà ông Luận. Bành hớn hở lạ thường, tưởng mừng vui trong buổi hát. Vợ chồng ông Luận cũng mừng lây cho thằng học trò hớt dạo. Bành thở hì hục kể cho ông bà Luận hay mình vừa mới gặp Chanh ở bên hàng dậu, hắn cười nói sung sướng như trúng số. Trả lại bộ đồ vét, hắn phóng đi ngay, chả phải chào thưa. Ông Luận vói miệng nói: – Đừng ẩu nghe mầy! Ông bước theo ra cửa để nhìn xem thực hư, ông không thấy Bành và cũng chẳng thấy Chanh mà chỉ thấy bóng đen bên kia đường. Ông Luận phập phồng lo sợ cái tuổi trẻ thời đại nầy, khác với ông thuở xưa. Mới gặp nhau thì nói là đã yêu nhau lâu rồi. Sao nhanh thế hay tại mình hủ hoá? Ông lắt đầu đi thẳng vào buồng nằm bên Nguyệt; người bạn đời của ông.
– Sao anh liều thế ? Bà cụ đang ngủ. May mà nhà không có chó, nó sủa thì cả làng đều nghe. Chanh nói.
Thật thế; chưa có ai liều như Bành, Bành xuất thân trong một gia đình bần cùng thì phải sinh ra tật. Mẹ chết sớm, cha bất lực, cảnh nghèo đẩy con người vào đường cùng, lại thiếu tình thương, thiếu vỗ về, ắt phải đi kiếm cái tình đó; ấy là tệ nạn gia đình và xã hội. Mà ở Mậu Tài làm chi có mặt xã hội giữa lúc nầy. Chanh cùng một cảnh ngộ như Bành nhưng Chanh nằm trong cái mái nhà bảo thủ, có qui cũ đàng hoàng cho nên ít nhiều ảnh hưởng, dù máu mủ có khác. Do đó cả hai gặp nhau như sự cảm thông vô hình, vì cả hai đi từ bóng tối đi ra.
Trong khu vườn nhà bà Thừa Cảnh tối om, tàn cây phủ dày bốn bề khó nhận ra trắng đen. Đôi nhân tình lần mò kiếm chỗ ngồi. Tim cả hai đập mạnh. Cả hai đồng loã với bóng đêm để cướp lấy thừa cơ, bởi tình yêu ấp ủ từ lâu, họ đợi chờ và kiên nhẫn đợi chờ cho tới hôm nay. Tình yêu có khi trầy da, tróc vảy có khi một chớp nhoáng là đã yêu nhau rồi. Như trường hợp của Bành và Chanh.
Nhanh thật; mới ngày nào là thằng nhóc xách thùng hớt tóc dạo, thế mà đã mấy năm qua trong nghề, đầy đủ kinh nghiệm để chống chọi với đời. Với số lượng thời gian như thế, làng Mậu Tài lắm điều thay đổi, khác với hồi cha con Vững kéo về đây.
Bành cuối đông năm nay lên 21. Chanh 23 nhưng trông như 17, 18. Ông thầy và Bành đều nhận ra như thế. Ngược lại Bành già trước tuổi vì sớm lăn lộn với đời. Bành và Chanh so le tuổi tác nhưng đều là những người đa tình. Biết yêu sớm.
– Anh hát hay chắc có nhiều người ưa anh. Chanh nói.
– Không có mô. Tui đâu thương ai mà ưa với không. Chỉ có Chanh là tui để ý từ lâu.
– Tên anh hay, hát hay dể làm cho người ta nhớ. Chanh nói.
– Không; tui tên là Trần Văn Bành còn cái tên Trọng Khánh thầy Luận đặc cho tui để mỗi khi ca hát. Bành-hớt-tóc-dạo. Bình dân rứa đó! Ai ưa hay ghét kệ họ. Tui ưa Chanh thôi. Bành nói.
Đêm đầu gặp nhau, trao đổi một vài câu ái tình, cảnh trời đã vào khuya. Bành cầm tay Chanh và cất tiếng giả từ. Chanh tựa cửa sau, nhìn Bành vác chân vượt qua bụi rào. Ngoài lộ chẳng còn ai qua lại. Một vài con chó đi kiếm đồ ăn rơi. Bành về tới nhà, bốn bề phẳng lặng, vén tấm cửa lá chui vào tìm chỗ nằm. Hơi người của Chanh còn phản phất đâu đây, hắn cảm thấy sung sướng còn hơn buổi hát đầu hôm. Bành mệt và lịm dần trong giấc ngủ muộn cho một ngày có nhiều điều xẩy đến.
Từ ngày có hội diễn đêm văn nghệ lộ thiên ở chợ Hôm. Chị em bạn hàng cũng như lớp trai trẻ đều nhắc tên ca sĩ Trọng Khánh. Họ biết Trọng Khánh là ai rồi. Lạ gì Bành con trai Tư Vững, lạ gì Bành hớt tóc dạo. Không phải họ đem mấy điểm đó để nói lên thành phần của Bành; ở Mậu Tài ai cũng như ai, bình đẳng nhưng nay xuất hiện một vì sao văn nghệ như thế nói sao không bàn. Hãnh diện lắm chơ! Dì Sâm mát mặt ở giữa chợ, Sâm chôn niềm hạnh phúc đó trong lòng, Chót sướng vì được bạn bè trong thôn chận đường hỏi thăm về anh mình. Ở buổi chợ sáng nay bà con vừa bán, buôn vừa hồ hởi, cứ quanh co cái dzụ hát hò đêm rồi. Chanh xách rổ đi chợ, để mong được thấy Bành giữa thiên thanh bạch nhật, méo tròn ra sao. Đêm che hết cho nên khó nhận được đôi mắt người tình nghĩ suy về mình. Chanh không còn để tâm vào chuyện cá với rau, mà sao buổi chợ hôm nay như có phần rộn ràng hơn mọi khi.
– Thằng đó ca hát mùi mẫn như thế thiếu gì con gái chạy theo. Mụ Thêm bán rau nói.
– Không biết hắn bỏ nghề hớt tóc đi hát cho cơ quan nhà nước? Chị Thẻo bán nón nói.
Chanh nghe mụ bán rau bàn chuyện thế sự, Chanh đâm ra lo, bởi xã, thôn, làng Mậu Tài trai thiếu, gái thừa, cho nên nhiều cô tuổi ngoài ba mươi sợ mình phải ăn giá sống dài dài. Chanh đang ở trong dạng đó. Cho nên Chanh cũng hơi ớn.
Mấy ai trong thôn, trong xã biết cái sự thành công ca hát của Bành. Cho rằng thằng đó có tài. Họ đâu biết ai đưa đường dẫn lối để ngày nay hắn trở nên cán bộ văn nghệ xã và có ai hay cái tên ”cúng cơm” Trọng Khánh được đặc ra sau bửa cúng thổ thần xuất quân của Bành về huyện nhận công tác ở nhà vợ chồng thầy Luận. Không ai biết! Kể cả Vững, Sâm, Đấu, Chót cứ nghĩ Bành học lóm người ta rồi xin với xã hát hò; thế thôi. Bành chẳng phân bua. Chỉ nghĩ làm sao Chanh cảm thấy thích là được rồi và chẳng coi việc hò hát là chính; dù Bành đang công tác trong ban văn nghệ xã. Bành không cho đó là thăng hoa, lúc nào cũng giữ cái thế bình thường. Vào làm việc ở đội văn nghệ xã, Bành mới thấy được chân tướng bạn đồng nghiệp, thấy Bành mới “ra ràng” nhìn đôi mắt chủ quan, cứ cho mình là hay, không ai hay bằng, cho nên kiêu hãnh vô cùng, gương mặt đám ca sĩ đi trước đanh lại, ăn nói e dè, làm dáng như thử sợ đụng đến thanh danh. Được trồi lên giữa quần chúng là tưởng đời thần tượng mình mà quên rằng mình là hạt bụi chưa có chỗ để đậu. Cái thứ văn nghệ đó dzỗm lắm! Bành đâu cần học cao mà trí tuệ đã rộng mở và có con mắt nhìn đời; đó là yếu tố làm cho người ta mến. Chủ trương của Bành ngó thế mà cao siêu hơn cái đám ”nhà làng” Bành chỉ có một tham vọng là chinh phục tình yêu, đó là cái trời cho mà ít ai khai thác, họ lại chạy theo ảo vọng, hư danh. Bành nghĩ khác; hò hát là niềm vui chung, nếu một mai có thành danh, hái ra tiền thì vị trí đó là phương tiện, chớ không phải giàu đổi bạn, sang đổi vợ. Có thật như thế không Bành? Ấy là điều mà bao lần Bành trao đổi với Chanh. Nàng ngó vậy mà nhẹ dạ, sợ người ta cướp thần tượng của mình, thì mình ở thế ăn giá sống. Yêu mà định nghĩa như rứa là nhầm rồi Chanh ơi! Cái dân-giả của Bành có từ nguồn gốc mấy đời qua. Trường hợp cha Bành là ở cái thế chẳng đặng đừng. Mà có tội tình chi. Dì Sâm ưa cha mình là do suy nghĩ của dì. Bành đã lý giải nguồn cơn đó từ dạo biết dì ở trong buồng con Chót. Bành hiểu tư duy của cha mình. Cho nên Bành yêu Chanh như cái tình ngày xưa của cha mạ mình ưa nhau. Sống trong tình yêu với Bành, Chanh hiểu được lòng chàng. Thế rồi hai đứa hò hẹn với trăng sao, đầu sông, cuối sông, kéo dài cả năm hơn. Không gặp Chanh trong một ngày, Bành như người mất trí. Chanh nghĩ dại; nếu hiến được Chanh hiến…
Bành chưa bao giờ mang nặng tâm tư như thế. Con trai ở cái tuổi đó làm sao mà chịu ăn chay. Thánh trên trời cũng không chịu huống hồ là Bành; hắn là một con ma liều, đâu dể đạo đức thế. Đúng! cái vỏ bề ngoài của Bành dể bị đánh giá. Nhưng được cái không ba hoa chích chòe. Có sao nói vậy. Sống thực với lòng mình. Chấp gì chuyện thị phi và giữ cho mình một tâm hồn thanh cao. Thủ thường sống với cái làng Mậu Tài nầy cho tới ngày tàn hơi.
– Chanh ơi! cho anh hun nơi má em một cái được không? Mỗi lần em nhấp nháy con mắt anh chịu không nổi, anh muốn hun thôi. Bành nói.
– Chưa được đâu Bành. Trời còn sáng, hun hít người ta thấy đồn ầm lên liền. Chanh nói.
Hai đứa ngồi dưới bóng hoàng hôn bên bờ sông, có mấy mỏm đá lớn, nhỏ, lồi lõm đan kín dưới cội cây sung và là nơi ít ai lui tới, người trong thôn ra đây khấn vái ba bửa rằm, mồng một; còn đêm nay đầu tháng, tối trời, trăng lưỡi liềm làm sao rọi thấu. Họ cầm tay nhau, có khi cả hai chả nói điều gì, Bành nấn nót bàn tay Chanh, tóc Chanh quất vào mặt Bành mỗi khi gió thổi tới. Cái im lặng vô biên chính là cái rạo rực vô cùng. Dưới ánh chiều tà Chanh đẹp một cách sang trọng trong mắt Bành. Chanh thon người, thon mọi thứ ở tuổi 25, cái khép kín đó đã làm cho Bành xin được hôn. Đó không phải là lời thỉnh cầu đầu tiên của Bành. Chanh yêu Bành cho nên Chanh nương theo để được hôn, từ cái hôn má, thấy chưa toại nguyện, hai đứa chuyển sang hôn môi, cái kiểu ái tình cổ điển nầy mất thời gian, chính cái chậm rãi đó cho Bành thấy được giá trị tình yêu. Đây là mối tình đầu của hai đứa.
Trời sập xuống, Bành nhìn trước, nhìn sau phóng tay ôm Chanh vào lòng và hôn ào ạt, quặt qua hôn môi, Bành sa đọa; đưa tay luồn vào áo của Chanh. Bành dìu nàng nằm xuống tản đá lớn. Bành và Chanh nhắm nghiền đôi mắt. Gió reo nghe rõ và rồi không nghe họ nói gì chỉ còn nghe tiếng thở của gió.
Hai năm sau Bành được đề cử làm trưởng ban văn nghệ xã. Không phải nhờ giọng ca thiên phú làm nên sự nghiệp. Bành làm tốt công tác, đưa đội văn nghệ xã đến gần với quần chúng, phát động cách mạng văn hoá, văn nghệ để bà con làng, xã Mậu Tài có hướng đi mới. Từ đây dân làng gọi Bành là cán bộ Trọng Khánh. Bành không muốn danh xưng đó nhưng làng đổi danh xưng cho Bành như tỏ sự yêu chuộng. Riết rồi Bành quen với tên thường gọi. Như đã quen Bành-hớt-tóc-dạo. Có sao đâu!
Sau giờ tan tầm Bành đến nhà giáo Luận. Gần cả mấy tháng từ ngày nhận quyết định bổ nhiệm, Bành ít khi thong thả, điều nầy ông Luận cũng thường hay lên tiếng với Nguyệt; vợ ông. Nhưng ông Luận không buồn về chuyện nhỏ, ông đã thấy cuộc đời.
Thoáng như ai là thằng Bành vào nhà. Ông Luận xỏ đôi dép vào chân bước ra cửa.
– Chào thầy. Thầy khoẻ không? Lâu quá không đến thăm thầy cô. Bành nói.
– Ờ; tao có nghe qua, dạo nầy mầy bận. Tao có gặp con Chanh vợ mày. Ông Luận nói
– Gởi thầy cô món quà mọn nầy. Bành nói.
– Ồ! Bày đặc. Sao phải làm thế. Có gì mà quà với cáp. Giáo Luận nói.
– Thôi được; nhận cho vợ chồng mầy vui. Mầy nhớ tới tao như thế là qúi lắm rồi.
Tao chỉ mong cái sự làm nên đi từ lương tri thì mới dài lâu. Mầy còn trẻ chưa thấy hết cuộc đời. Phải canh chừng; vì đời là phỉnh phờ, lừa dối. Không có thực đâu. Chỉ còn lại tấm lòng là cao qúi. Thế thôi! Thầy Luận nói.
Họ ngồi bên nhau; trầm ngâm bên tách trà giữa hai thế hệ nhưng cùng một đam mê, một chí hướng. Bành đã học ở thầy Luận nhiều điều ở cuộc đời này hơn là học hát, học đờn. Chính nhờ kinh nghiệm đó mà đưa Bành vượt qua bao trở ngại. Đôi mắt thầy buồn, đôi mắt Bành cũng buồn. Trời bên ngoài đã nhá nhem tối. /.
Võ Công Liêm
(Nhớ thángtư / 2011)
Nguồn: Tác giả gửi


















