Hà Thúc Sinh
Mấy năm trước đây, bên thềm “Ngày Của Cha” (The Father’s Day), một ông bố Mỹ đã chứng tỏ lòng yêu con của ông bằng một… biện pháp quyết liệt đến hãi hùng. Người Á đông ta có câu “Nghĩa phu thê nghĩ đồng sinh tử” thì ông Mỹ này đổi lại chút đỉnh là “Tình cha con nghĩ cùng sống chết.” Có lẽ nghĩ thế và tin thế, ông đã làm xôn xao cả dư luận Mỹ. Theo hãng tin AP, Edward Van Dyk, bác sĩ, 43 tuổi, đã từ tầng 15 của một khách sạn ở Miami Beach ném cả hai đứa con trai 4 và 8 tuổi xuống rồi nhảy theo. Cả ba cha con chết thảm để làm kết luận cho một bi kịch gia đình.
Ngay sau khi bản tin loan đi dư luận đã rộ lên những lời kết tội nặng nề. Gần như ai cũng cho ông bố là kẻ ích kỷ, không công bằng, bất nhân vân vân và vân vân. Tất nhiên có thể là như vậy. Nhưng nhìn ở một khía cạnh khác hình như ông ta cũng cần một lời biện hộ. Nhìn sự việc trên một bức tranh lớn, nhiều phần trăm ông cũng là nạn nhân. Xứ này chủ nghĩa cá nhân (individualism) sống hùng sống mạnh gần như trong từng người. Nó chính thức được hiến pháp công nhận. Và chính chủ nghĩa này là môi trường tốt nhất cho một chủ nghĩa khác phát sinh: chủ nghĩa “cái tôi trên hết” (egocentrism). Chẳng ai yêu cái tôi bằng chính tôi; vì thế, ai đụng đủ mạnh vào cái tôi của tôi là không được, kể cả chồng hay vợ và giải pháp sau cùng là anh đường anh tôi đường tôi, tình nghĩa đôi ta có thế thôi là chuyện bình thường.
Trong 40 năm qua, có thể một phần vì vậy, mức độ ly dị tại Mỹ đã tăng gấp đôi chăng? Trung bình 10 cuộc hôn nhân có đến 4 kết thúc bằng ly dị. Mà khi nói đến ly dị thì sau mấy đứa con, tất nhiên, chính ông bố sẽ là kẻ chịu nhiều thiệt thòi hơn về cả hai phương diện vật chất và tinh thần. Vật chất (thường người đàn) ông phải cấp dưỡng cho cả mẹ lẫn con. Việc cấp dưỡng cho các con sẽ chấm dứt ngày chúng trưởng thành theo tuổi ấn định bởi toà án. Riêng với bà mẹ, nếu bà cứ ở vậy thì đó sẽ là cái nợ đời của ông. Ngày nào ông còn kiếm ra tiền, toà vẫn ấn định một mức độ cấp dưỡng cho bà (nếu bản án ly dị quy trách nhiệm cho ông). Còn gì ức hơn khi ông cứ phải đi cày để cúc cung tận tuỵ cấp dưỡng cho bà nhởn nhơ ở những chỗ biết được mà ông không đến được, tưởng tượng ra được mà không nhìn thấy được. Nếu bà không có tiền án nguy hiểm, hoặc ông không chứng minh được thói hư tật xấu của bà có thể ảnh hưởng không tốt cho lũ con, bà đương nhiên được quyền “thu nuôi” tất cả. Ðời sống cứ thế trôi đi và càng ngày mối dây liên hệ cha con càng thêm lỏng lẻo. Ðám trẻ cho đến một ngày nào đó coi như không còn dính líu gì đến cha chúng nữa mà lại rất ư gắn bó với một thằng cha căng chú kiết nào đó vừa chính thức “move in.” Chiều trên đường đi làm về, nhớ con, tốp xe bên đường nhìn qua cửa sổ bếp, thấy chúng và bà mẹ nhởn nhơ bên cạnh một người đàn ông lạ mà xem ra cả nhà lại rất là đồng điệu. Như bà mẹ, giọng các con thân mật gọi hắn bằng tên “Hi Jack, hi John, hi James…” vọng cả ra ngoài… Ðây là sự tra tấn tinh thần và là nỗi ám ảnh hết sức dễ sợ cho rất nhiều ông bố Mỹ sau khi ly dị. Và đó cũng có thể là nguyên nhân bác sĩ Van Dyk đã phạm tội ác giết hai con và tự sát sau đó.
Nhưng 60% gia đình Mỹ còn (tạm) lành lặn, hình ảnh ông bố trong thời hiện đại cũng chẳng còn là hình ảnh ông bố ở nửa thế kỷ trước. Nhiều ông già bà cả Mỹ vẫn thường nhắc đến cái hình ảnh gia đình của thập niên 1950s, thập niên được xem như “thời hoàng kim” của các gia đình Mỹ. Thời ấy những cái gọi là “giá trị gia đình” còn nguyên vẹn. Hình ảnh người cha còn nguyên sự lẫm liệt trong vai trò làm lụng nuôi nấng gia đình và nghiêm dạy con cái. Ngày nay do hoàn cảnh xã hội thay đổi (dường như trên cả thế giới chứ chẳng riêng gì Mỹ), người đàn bà dấn thân ra ngoài đời kiếm tiền không khác người đàn ông, và vì “đồng đô nào cũng xanh như nhau,” thành thử lẽ tất nhiên hình ảnh người chồng, người cha dần dà nhạt màu đi trong sự… kính nể của mọi người. Ấy là ông bố đang còn khoẻ mạnh, còn công ăn việc làm đấy, chứ một ông bố bệnh tật rề rề, hoặc hoàn toàn tê liệt nằm một xó, hoặc ít ra tạm thời thất nghiệp phải ở nhà diễn trò “Mr. Mom” thì thê thảm lắm. Con cái nó cũng chẳng còn coi ra gì. Mà thực ra người ta–nhất là người ta ở đây lại là những ông Việt, ông Tàu, ông Miên, ông Lào… vốn quen thấy mình như là thứ cổ thụ trong nhà–không để ý đấy thôi, chứ Tây Mỹ họ cám cảnh thân phận họ từ lâu lắm rồi, đã phân tích sự kính trọng của lũ con vốn dành cho họ như thế nào. Sự kính trọng ấy sẽ thăng trầm theo thời gian dựa trên cái “bảng định giá” của chúng nó như sau:
4 tuổi: Bố làm được mọi thứ!
7 tuổi: Bố biết nhiều lắm, nhiều vô cùng!
9 tuổi: Thật thì bố không biết hết mọi thứ đâu!
12 tuổi: Lẽ tất nhiên bố biết gì chuyện đó!
14 tuổi: Bố? Lỗi thời hết thuốc chữa!
21 tuổi: Ông già hả? Hết hạn!
25 tuổi: Có thể bố biết tí chút về việc này.
35 tuổi: Trước khi quyết định, chúng ta nên hỏi ý kiến bố.
60 tuổi: Không biết hồi đó bố nghĩ sao về chuyện này ha?
65 tuổi: Ước gì tao còn được thêm một lần nữa để hỏi ông nội chúng mày cho cặn kẽ về việc này!
Có phải vì giá trị gia đình đã có những thay đổi quan trọng, đem đến tình trạng đáng bi quan trong xã hội Mỹ ngày nay, và vì thế người đàn ông mất dần đi sự hãnh diện họ đang hoàn toàn làm chủ một gia đình? Và dấu hiệu rõ nhất cho mọi người thấy điều đó là chiếc nhẫn cưới dần dần bị họ… ém đi?
Một cô em 22 tuổi làm việc trong một đại xí nghiệp quốc tế ở Seattle đã nhòm nhỏ, phanh phui, rồi đem chuyện này mách với nhà báo. Trong mục giải đáp tâm tình của Judith Martin (Miss Manners) đăng trên nhiều nhật báo Mỹ tuần trước, cô gái ấy đã nêu lên thắc mắc:
“Cô Manners thân mến. Vào tuổi 22, em đã có thể là một sinh viên học bay vào không gian nhưng em vẫn không đồng ý với cái nền văn hoá hoàn toàn bình dân (total pop-culture). . . . Em khó chịu về một hiện tượng rất phổ thông này: cánh đàn ông có vợ mà không đeo nhẫn cưới. Thí dụ trong cuộc họp ngày hôm qua, ba phần tư những ông mà em biết tỏng tòng tong đã có vợ nhưng không chịu đeo nhẫn. . . . Em biết cũng có vài nền văn hoá không đòi hỏi việc đeo nhẫn, nhưng những ông này đều là dân Mỹ cả. Họ không phải cánh lao động chân tay, thế tại sao họ không đeo nhẫn? Sự kiện thật tình làm em khó chịu bởi nó cho thấy bọn họ có vẻ muốn chứng tỏ ta đây còn độc thân, chẳng vướng bận ai. Em thường nghe nói đến việc ái tình lăng nhăng, không chung thuỷ, ly dị… ở Mỹ có một tỷ lệ cao hãi hùng lắm? Cô nghĩ thế nào?”
Không biết bà Judith có nằm trong mấy cái danh sách “chuyện khó tin nhưng có thật ở Mỹ” mà ly dị là chuyện phổ thông đệ nhất hay không, nếu không thì quả không hiểu vì đâu câu trả lời của bà nghe dấm dẳn thấy rõ. Thay vì chỉ cần cố vấn cho cháu nó một câu ngắn gọn, chẳng hạn, “Con gái ơi, còn nhỏ con đừng sắc mắc quá kẻo chẳng có thằng ma dại nào nó dám rớ tới con đâu,” thì bà lại đi luôn một tràng dạy dỗ:
“Trước tiên, ái tình lăng nhăng không nằm trong nền văn hoá bình dân, dù rằng có thể nó phổ thông chăng nữa. Và thứ hai, cũng chẳng có phong tục Mỹ nào bắt người đàn ông có vợ phải đeo nhẫn…”
Dù người hỏi hỏi thế nào, người đáp đáp ra sao, điều ấy không quan trọng; điều quan trọng là đúng như cô gái quan sát, đàn ông có vợ ngày nay đa số không còn đeo nhẫn. Phải chăng người đàn ông Mỹ chẳng còn thấy… vinh dự gì khi làm chủ một gia đình vào thế kỷ 21, hoặc giả phải chăng chiếc nhẫn đôi khi nó xiết ngón tay người đàn ông đau nhức như cái vòng kim cô siết vào đầu Tề thiên Ðại thánh?
Nhưng đó là nhìn vấn đề trên mặt… tiêu cực. Thật thì không phải hình ảnh ông bố ngày nay nơi đâu cũng bết bát như thế, ngày nào cũng nhễu nhão như thế; cũng có ngày tích cực lắm đấy, chẳng hạn trong khoảng thời gian hiện tại—tháng Sáu hàng năm–nhiều người Âu Mỹ còn nhớ họ có một ông bố còn sống, và họ đang hoặc sẽ hy sinh ít thì giờ đi mua cho ông ấy tí quà. Nhiều gia đình bỗng tươi tắn hẳn lên. Vợ xử với chồng tình tứ, lãng mạn như trong bức “I Do” của Chritian Pièrre; hoặc rực rỡ keo sơn như trong bức “To My Wife” của Marc Chagall; gia đình vợ chồng con cái gắn bó, thân thiện như trong bức “Một Buổi Trưa” của Carmen Lomas Garza.
“Ngày Của Cha” năm nay chỉ còn ít ngày nữa sẽ tới. Ðây là ngày mà người Âu Mỹ không chỉ đơn thuần nhớ đến người cha đẻ ra họ. (Riêng khoản này họ rộng lượng hơn người mình rất nhiều). Họ nhớ, họ tôn vinh, họ tưởng niệm đến bất cứ người thân quen nào có hình ảnh là những người cha trong đời họ. Họ nhớ đến ông nội ông ngoại, nhớ đến mấy ông anh cậu em đã đùm đề con cái, nhớ đến chú đến bác, và đặc biệt hơn, nhớ đến cả… ông bố dượng là kẻ từng nẫng mất mẹ họ khỏi vòng tay bố họ ngày xưa nữa. Các ông cha nói chung, sẽ được cả nhà đem bữa ăn sáng vào tận giường, hát mừng chúc tụng; rồi picnic, rồi tiệc BBQ, rồi quà cáp mà quà phổ thông thường là những chiếc cà vạt đắt tiền, (biểu hiện ngầm một sự… đe dọa chăng: tie là cà vạt và cũng là cột, buộc, trói?)
Sống ở Âu Mỹ đã lâu, tuy thế, vẫn có rất nhiều gia đình Việt Nam chưa có thói quen nhớ đến “Ngày Của Cha,” hoặc không thấy ngày này là một… sự an ủi bù trừ lớn cho những ông bố mà vì hoàn cảnh, sang sống ở những xứ họ có tự do hoàn toàn để… nói như ông hoàng và làm như thằng ở, nhưng thường bị con cái cư xử lạnh nhạt, đôi khi quên lãng, nhất là sau khi chúng đã trưởng thành và… cao bay xa chạy.
Nhưng vì đâu nên nỗi? Ngẫm nghĩ lai rai chợt thấy ra một nguyên do khá giản dị thế này: Ðể “định nghĩa” ông cha bà mẹ, ở ta người xưa gọi cha là nghiêm phụ còn mẹ là hiền mẫu. Hiền ắt phải dễ gần hơn nghiêm. Còn ở Mỹ, điển hình qua thi sĩ Robert Frost, tác giả bài thơ bất hủ “Memory,” từng đưa ra ví von rằng “Với con trai cha luôn luôn là một người Cộng hoà và mẹ là một người Dân chủ.”
Nghiêm hay… cộng hoà có khuynh hướng bảo thủ, truyền thống, nói tóm là khó khăn, là hay… giảng mô-ran; còn hiền hay… dân chủ thì ngược lại, cấp tiến, nói tóm dễ dãi, phiên phiến và thằng con dù đã tam khoanh tứ đốm, vẫn sẵn sàng ấp đầu nó vào ngực mà vỗ về “Oh my poor baby!” khi nó thất bại trở về để… moi tiền chẳng hạn.
Thế là nghiêm và hiền cãi nhau; cộng hoà và dân chủ đấu đá nhau. Ông bố hoặc không biết hoặc quên mất lời dạy của cụ Khổng “đa giáo tắc oán,” còn bà mẹ thì nhớ như in kẻ mình mang nặng đẻ đau là thằng “poor little guy” này chứ chẳng phải cái lão “grumble old man” kia!
Phải chăng có một con số không nhỏ thân phận ông bố ở Mỹ, đã và đang đi tới những kết quả thảm kịch đồng dạng với bác sĩ Edward Van Dyk, có chung một nguyên do như thế?
Hà Thúc Sinh
Nguồn: Tác giả gửi


















