laiquangnam
Nguyễn Du là người có tấm lòng nhân ái. Ông thương nước, thương người, thương vật và thương mình. Qua vần thơ chữ Hán, Nguyễn Du thể hiện trong rất nhiều bài về tình thương. Thương người là bài Văn tế thập loại chúng sinh, thương mình qua Kiều, qua bài Long thành cầm gỉa ca tuyệt tác và thương vật qua bài Điệu khuyển (Bài truy điệu chú chó) dưới đây. Tấm lòng thương của Nguyễn Du đối với con vật thật đáng kính. Qua đó không biết Người Xưa đã gởi đến chúng ta bao nhiêu nỗi riêng?. Ông thương mình một cách cực kỳ kín đáo .
Liều thân chẳng quản, cứ xông,
Bao phen thử sức. .,.thành công vụt hoài!
Ngừời đàn ông Việt Nam có hai thuộc tính quý giá, một là lòng hy sinh liều thân cho tổ quốc và bảo vệ mái ấm gia đình, hai là óc hài hước như nói lái, tiều lâm, khôi hài, hóm hỉnh… Thời Lý Trần cách nay hơn 700 năm khi ấy với Phật giáo đang là quốc giáo, tính cách của dân Lạc Việt, khi mà đạo Phật thời ấy không bị nhiễm bẩn, là Tam hộ: hộ quốc, hộ pháp và hộ gia. Câu Tam hộ này cũng như câu “Tổ quốc, danh dự và trách nhiệm “ trong giới quân nhân. Tôi nghĩ ngày ấy tại các chùa VN đều có khắc trên đá trước hoàng thành câu Tam hộ này. Bởi điều này dễ thấy khi các vua Lý Trần nhất quán mặc áo bào xung trận. Sau này Phật giáo Việt Nam tàn tạ, bản sắc Lý Trần mất đi khi mà nhà Hồ (Hồ quý Ly một người ngoại tộc, gốc Tàu cướp ngôi nhà Trần, Hồ quý Ly trèo cao chui sâu vào vương triều Trần do y giỏi tiếng Tàu hơn người Việt giỏi tiếng Tàu, tỉ như dân Đại học Sư phạm Sài Gòn khoa Việt Hán có nhiều sinh viên gốc Tàu đậu vào học vậy. Kinh lắm! ). Hồ Quý Ly đã tạo điều kiện cho nhà Minh sang cướp nước ta. Văn minh Lạc Việt bị hủy sạch. Đau đớn thay, 500 năm xây dựng văn hóa và văn minh Lạc Việt từ Ngô Vương Quyền năm 938 – đến Hậu Trần năm 1400. Nhà Minh lập tức đào tạo một giới thầy chùa còn tồn tại đến ngày hôm nay, họ du nhập Phật Giáo Trung hoa vào Phật Giáo Việt Nam, qua giới thầy chùa này đủ loại kinh sách, đạo gia thượng vàng hạ cám. Một lớp “thầy chùa” mới xuất hiện và kinh sách Việt nhiễm bẩn toàn kinh sách Tàu. Nho giáo vượng lên. Đạo Phật Việt Nam chỉ còn cho dành cho các bà cầu tự và đặc sệt tiếng Tàu nay không mấy ai hiểu. và ngày nay người Âu Châu khi nhắc về văn minh Phật Giáo Á đông không mấy ai nhắc đến Việt Nam, chỉ nhắc Trung quốc, Nhật bản, Triều Tiên. Trong khi Phật giáo Việt Nam thì tính cách người Việt rất rõ qua câu Tam hộ mà hộ quốc luôn luôn đi đầu. Nguyễn Du mượn lời con chó cưng mà nói thay cho nỗi lòng của người đàn ông trong thời đại mình. Nguyễn Du thấm nhuần tư tưởng Phật giáo có lẽ trong ông còn cái gen của giống nòi Lạc Việt khi viết bài này.
Hôm nay nhân Ngày của Cha, laiquangnam xin chuyển đến Khách thơ thân thương của mình, những người Cha Việt Nam tấm thân chỉ nặng trên dưới năm mươi ký lô, nay có thể đang loay hoay đâu đó một cách cực nhọc nơi xứ lạ quê người mà chẳng hề cất lên một lời than thở. Họ lặng lẽ không kịp dấu đi những giọt nước mắt thương mình hay rơi những giọt nước mắt reo vui bên đứa con vừa thành đạt! Quê Nhà thương lắm thay! – ”chiều chiều ra đứng ngỏ sau, trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”. Nắng chiều vàng vọt và chín bởi lòng nhung nhớ quê mẹ nung chín cả ánh sáng mặt trời. Nơi đâu cũng một trời thương nhớ, 9 cõi hay 9 chiều không gian và nội tâm. Thương lắm!
Xin mời Khách thơ của laiquangnam cùng đọc nguyên tác chữ Hán của Cụ Nguyễn Du nhà mình. Trong bài thơ này có câu nguyên tác tự thán ngậm ngùi mà laiquangnam dẫn ở trên.
Liều thân chẳng quản, cứ xông,
Bao phen thử sức. .,.thành công vụt hoài !
Nguyên tác
悼犬
駿馬不老死
烈女無善終
凡生負奇氣
天地非所容
念爾屬所畜
與人毛骨同
貪進不知止
隕身寒山中
隕身勿嘆惋
數試無全功
Phiên âm
Điệu khuyển
Tuấn mã bất lão tử
Liệt nữ vô thiện chung
Phàm sinh phụ kì khí
Thiên địa phi sở dung
Niệm nhĩ thuộc sở súc
Dữ nhân mao cốt đồng
Tham tiến bất tri chỉ
Vẫn thân hàn sơn trung
Vẫn thân vật thán uyển
Sổ thí vô toàn công
Chú vài từ và tạm dịch nghĩa
a) Vài từ Hán nay xa lạ với người Việt
– Dữ: như (trong tiếng Việt là y như )
– Vật: chớ, chẳng hề, mà không. Vật là tiếng Tàu nay ta không còn dùng,
– Uyển: ân hận, sợ hãi
b) Vài từ Hán Việt quen thuộc
Vẫn (隕): gieo mình, như tự vẫn trong Việt ngữ còn dùng
Điệu (悼): truy điệu. Điệu, trong khi điếu là thương tiếc kẻ đã lìa đời. Tiếng Việt có cụm đi điếu, đi phúng điếu. Điệu khuyển tạm dịch thoát là “Truy điệu chú chó “.
c) câu thơ cô đúc là câu thứ 9 áp chót, 隕身勿嘆惋, Vẫn thân vật thán uyển, laiquangnam xin tạm dịch từng từ: Vẫn thân là Gieo mình, đó là cách liều thân tự nguyện , Vật là chớ hề.
Toàn văn câu, Vẫn thân vật thán uyển là liều mình mà không có một lời oán hận và lòng chẳng hề sợ hãi. Nguyễn Du vô cùng tinh tế khi nêu thuộc tính cao thượng của Chú Mầy qua năm từ. Lòng tận tụy ra sức báo đền ơn ngừời vô điều kiện, đó là thuộc tính cao thượng của chú Chó, con vật nuôi thân thương của người.
Dịch thơ quốc âm theo thể Song thất lục bát
Truy điệu chú chó
Tuấn mã chết già đâu khứng chiụ,
GáiTrung trinh kết! – điếu mà thương!
Phàm sinh khí phách khác thường
Đất trời không chỗ nào nương nhóm này!
– Buồn lắm thay vì mầy gia súc!
– Thịt xương mầy có khác chi ta!
– Tiến lên…, tiến mãi…, xông pha!…
– Gieo mình núi lạnh sương sa! – cam lòng!.
– Liều thân chẳng quản, cứ xông,
Bao phen thử sức ..thành công vụt hoài!
(laiquangnam dịch)
chú riêng: ký hiệu gạch đầu giòng (- xxx) trong bản dịch là lời thoại.
Bản dịch của người xưa
(chuyển sang Ngũ ngôn trong Việt ngữ)
Điếu con chó chết
Tuấn mã không chết già
Liệt nữ không chết yên
Phàm khí phách khác thường
Trời đất hay ghen tương
Thương mày giống gia súc
Cùng người đồng thịt xương
Ham tiến không biết thối
Bỏ mình rừng gió sương
Bỏ mình chớ than tức
Chẳng vẹn công đấu trường
(Quách Tấn dịch – Tố Như thi, nxb An Tiêm SG)
laiquangnam
Saigon, viết cho Ngày của Cha
Nguồn: Tác giả gửi


















