Trần Nghi Hoàng
Tại sao trời mưa, mới đọc lại “Chinh Phụ Ngâm”? Tôi cũng chẳng biết phải trả lời như thế nào! Chỉ có thể nói, mỗi khi mây vẩn vũ xám trên bầu trời, những vạt nắng úa dần và tan vào không gian, là tôi chỉ muốn nằm trong phòng một mình, đọc lại những dòng thơ của cổ nhân.
Thơ Đường mà đọc trong lúc trời đang mưa thì phải biết!
Yên ba giang thượng sử nhân sầu!
Trên sông khói sóng gợi sầu thương
(Hoàng Hạc Lâu)
Chẳng cần sông. Chẳng cần khói sóng. Một bầu trời ủng thủy và hơi nước cùng cái se lạnh của một chút gió đã đủ làm nao long người và ta lại tìm đến với thơ. Nhưng phải là những dòng thơ của người xưa…
Tác phẩm Chinh Phụ Ngâm tác giả là Đặng Trần Côn thì ai nấy cùng đã biết. Nhưng Chinh Phụ Diễn Âm song thất lục bát cho đến bây giờ, người đã diễn dịch Chinh Phụ Ngâm từ cổ phong Hán ra song thất lục bát Nôm vẫn còn là một công án.
Không ít các bậc trí giả đã bỏ công truy tầm di chỉ văn học sử liệu để chứng minh ai thực sự là dịch giả của Chinh Phụ Ngâm. Đoàn Thị Điểm hay Phan Huy Ích.
Sở dĩ chúng ta thường hay gặp những khó khăn trong vấn đề truy nguyên các văn bản cổ thư, một phần là vì đất nước Việt Nam luôn phải đương đầu với chiến tranh ngoại xâm hay nội loạn. Một phần khác là do ý thức lưu trữ và tàng trữ những văn bản di chỉ văn học từ bấy nay rất là hời hợt.
“Tổng Tập Văn Hoc Việt Nam tập 13, (trọn bộ 42 tập) do học giả Nguyễn Quảng Tuân sưu tập và biên soạn, bao gồm những công trình lý giải và khảo dị rất đáng ca ngợi về một số tác phẩm cổ của Việt Nam. Những tác phẩm Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán Ngâm Khúc, Ai Tư Vãn, Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm, Tự Tình Khúc, Tỳ Bà Hành, Trường Hận Ca, Chức Cẩm Hồi Văn, Truyện Hoa Tiên, Sơ Kính Tân Trang, Truyện Kiều, Mai Đình Mộng Ký, Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh được tận tình phục hoạt và tầm nguyên.
Hôm nay trời không mưa, nhưng lại hơi lành lạnh và dường như trong không gian tôi cảm được cái mùi của mưa. Một cơn mưa khuất mặt còn nằm bên kia những đám mây. Gần cuối tháng Chín, trời đất như se mình để bước vào thu. Và tôi lần dở lại những trang Chinh Phụ Ngâm…
Thiên địa phong trần,
Hồng nhan đa truân
Du du bỉ thương hề, thùy tạo nhân?
Cổ bề thanh động Tràng thành nguyệt,
Phong hỏa ánh chiếu Cam Tuyền vân.
. . . . . . . .
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?
Trống Tràng thành lung lay bóng nguyệt,
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây
. . . . . .
Người dịch hay thì có hay, dù là Đoàn Thị Điểm hay Phan Huy Ích! Từ năm câu cổ phong, chuyển thành sáu câu song thất lục bát. Thiên địa phong trần, hồng nhan đa truân… mà dịch là Thuở trời đất nổi cơn gió bụi, khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên… thì quả là tài hoa. Tuy nhiên, trong sáu câu song thất vẫn còn bị một khuyết điểm là có quá nhiều chữ “nổi” và “nỗi”… Dù là “nổi” dấu hỏi hay “nỗi” dấu ngã, ba âm “nổi” (nỗi) xà quần đi lại liên tục làm hơi thơ chừng như bị rối!
Tôi thử làm công việc… thay mận đổi đào, cả gan mà sửa đi vài chữ của bà Đoàn Thị Điểm hay ông Phan Huy Ích xem sao:
Thuở trời đất dậy cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều buổi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này…
Sẽ có người hỏi rằng (lại hỏi) “buổi truân chuyên” là cái buổi khỉ mốc gì? Xin tận tình giải thích như sau:
Ngày xưa, người đàn bà Việt Nam dù có lỡ sinh ra trong một gia đình nghéo khó đi chăng nữa, thì cùng lắm là mỗi ngày chỉ có một “buổi” truân chuyên mua gánh bán bưng hay cày sâu cuốc bẩm… Nhưng ngày hôm nay, phận má hồng phụ nữ nước Việt Nam thì truân chuyên đủ ngày bốn buổi sáng trưa chiều tối!!!
Chinh Phụ Ngâm là tác phẩm nói về nỗi truân chuyên sầu khổ của người phụ nữ trong thời giặc giả loạn lạc. Chính tự tác phẩm Chinh Phụ Ngâm cũng dường như bị ám vào cái đề tài do tác giả Đặng Trần Côn đã chọn cho tác phẩm văn chương của ông. Chinh Phụ Ngâm khi xuất hiện, đã tức thì được các nhà Nho trân trọng, “coi là một áng văn hay”.
Về sau có người đã diễn âm theo thể song thất lục bát và được truyền tụng là do bà Đoàn Thị Điểm. Học giả Nguyễn Quảng Tuân viết:
“Sự truyền tụng đã trải qua nhiều đời nên đã trở thành một niềm tin chung và cũng là niềm tự hào cho nữ giới vì có được một bậc văn tài như vậy.
Cho đến cuối thế kỷ thứ XIX, văn bản Chinh Phụ Ngâm cũng chưa được khắc in hoặc đã được khắc in nhưng không còn lưu giữ được bản nào nên chỉ được truyền bá bằng cách sao đi chép lại và bằng cách truyền miệng.
Mãi đến đầu thế kỷ thứ XX, năm Nhâm Dần, Thành Thái thứ 14 (1902) nhà Nho Vũ Hoạt mới cho khắc in bài Chinh Phụ Ngâm trong tập Danh Gia Quốc Âm gồm ba bài: Chinh Phụ Ngâm, Phan Trần và Cung Oán Ngâm Khúc.
Bài Chinh Phụ Ngâm Bị Lục được khắc in ở 34 tờ đầu, hàng tám; mỗi trang chia làm ba phần: giữa là Hán văn, dưới là diễn ca, trên là chú thích.
Vũ Hoạt trong lời bạt đã cho rằng Đoàn Thị Điểm là người đã dịch Chinh Phụ Ngâm ra quốc âm. Ông viết:
“Nhớ xưa Đặng Tiên Sinh làm sách ấy. Đoàn phu nhân diễn ra quốc âm. Trải qua bao năm, càng lâu thì khắc lại càng sai. Bù chỗ sót chữa chỗ ngờ, thì lão này đâu dám…” (Nguyễn Quảng Tuân, Tổng Tập Văn Học Việt Nam, tập 13. Trung Tâm Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn Quốc Gia. Trang 79)
Tuy nhiên, vấn đề ai thực sự là dịch giả Chinh Phụ Ngâm vẫn còn là một tồn nghi. Cho đến năm 1926, một người thuộc dòng dõi Phan Huy là Phan Huy Chiêm gửi thư cho Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, nói rằng hiện họ nhà Phan Huy còn giữ được bản chính Chinh Phụ Ngâm vừa chữ Nôm của Phan huy Ích dịch, thì câu hỏi tồn nghi ai là dịch giả Chinh Phụ Ngâm được hâm nóng lại.
Học giả Nguyễn Quảng Tuân viết:
“Trên tạp chí Nam Phong số 106, tháng 6 năm 1926 Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến có viết bài nói về Phan Dụ Am tiên sinh văn tập. Trong bài ấy ông có đưa ra bài thơ ngẫu thuật của Phan Huy Ích làm sau khi dịch xong bài Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn ngyên văn như sau:
Nhân Mục tiên sinh Chinh phụ ngâm
Cao tình dạt điệu bá từ lâm.
Cận lai khoái trá tương truyền tụng,
Đa hữu thôi xao vi diễn âm.
Vận luật hạt cùng văn mạch túy,
Thiên chương tu hướng nhạc thanh tầm.
Nhàn trung phiên dịch thành tân khúc,
Tự tín suy minh tác giả tâm.
Nghĩa là:
Bài Chinh Phụ Ngâm của Đặng tiên sinh người làng Nhân Mục (Mọc),
Tình cao điệu lạ đã được truyền bá khắp rừng văn.
Gần đây mọi người truyền tụng lấy làm thích thú lắm.
Đã có nhiều người tìm cách diễn ra quốc âm
Nhưng theo về âm luật thì dịch sao cho hết được cái tinh túy trong mạch văn.
Vậy phải theo từng thiên chương và hiệp với âm nhạc mà diễn ra thì mới được.
Nay nhân buổi nhàn hạ, ta dịch ra thành khúc mới (tân khúc).
Chắc tin rằng đã suy minh được long tác giả.”
(Nguyễn Quảng Tuân, sách đã dẫn. Trang 80)
Tuy nhiên, câu chuyện ai là thực sự dịch giả của Chinh Phụ Ngâm Khúc vẫn chưa có gì ngả ngũ. (Và đặc biệt là đối với miền Nam Việt Nam dưới hai triều Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa, các học sinh vẫn học Chinh Phụ Ngâm Diễn Ca và đương nhiên tin là của dịch giả Đoàn Thị Điểm.)
Trong giới trí thức văn học tuy cũng có vài người đặt nghi vấn về vấn đề này, nhưng bằng một cách rất thụ động.
Trong khi đó, sau công bố của gia đình Phan Huy về bản dịch và nguyên bản chính Chinh Phụ Ngâm, từ năm 1944 đã có những bài viết giá trị công phu để biện luận và chứng minh về thân phận thực sự của bản dịch Chinh Phụ Ngâm.
Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến yêu cầu Phan Huy Chiêm công bố bản diễn Nôm của Phan Huy Ích để chứng thực với mọi người. Nhưng ông Chiêm đã giữ im lặng một cách khó hiểu.
Học giả Nguyễn Quảng Tuân viết:
“Tiếp theo sau đó, Trúc Khê Ngô Văn Triện, trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy số 4, tháng bảy năm 1944 và Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm trên tạp trí Tri Tân số 113, ra ngày 23 tháng 9 năm 1943 cũng đã bàn thêm về vấn đề Ai là dịch giả Chinh Phụ Ngâm?
Hoa Bằng lại yêu cầu các con cháu nhà họ Phan nên công bố bản dịch của ông Phan huy Ích ra để gỡ cho xong một mối ngờ lớn về văn học này.
Nhưng mặc dầu có lời yêu cầu của Hoa Bằng, ông Phan Huy Chiêm vẫn không công bố được
Có thể là nhà họ Phan chỉ căn cứ vào bài thơ ngẫu thuật của Phan Huy Ích mà nói như ở trên thôi chứ thực ra gia đình, con cháu đã không còn giữ được bản Nôm nào để công bố. (Nguyễn Quảng Tuân, sách đã dẫn. Trang 80 & 81)
Như vậy, công án ai là dịch giả Chinh Phụ Ngâm vẫn chưa đi đến đâu!
Cho đến năm 1953, ông Hoàng Xuân Hãn cho xuất bản một công trình nghiên cứu rất công phu: “Chinh Phụ Ngâm Bị Khảo”. Trong đó, ông Hoàng Xuân Hãn khẳng định rằng bản dịch lâu nay thông dụng là của Phan Huy Ích.
Nguyễn Quảng Tuân viết:
“Đến năm 1964, nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội cho in quyển Chinh Phụ Ngâm do Lại Ngọc Cang khảo thích và giới thiệu.
Ông Lại Ngọc Cang có ý dựa vào thuyết của Hoàng Xuân Hãn cho rằng Phan Huy Ích là dịch giả Chinh Phụ Ngâm.
Trong lời nói đầu, ông đã cho biết: “trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cố gắng làm việc hết sức mình, mặt khác cũng đã nhận được nhiều sự giúp đỡ quý báu. Ngoài ông Phan Huy Sửu và một số người khác trong họ Phan Huy đã vui lòng cho biết mọi điều cần thiết trong dịp chúng tôi về Sài Sơn, tháng 7 năm 1961, đông đảo các vị và các bạn trong và ngoài giới nghiên cứu văn học… đã tận tình giúp cho tôi nhiều ý kiến bổ ích…”
Lại Ngọc Cang ở đầu trang sách đã theo Hoàng Xuân Hãn mà coi Phan Huy Ích là dịch giả bản dịch Chinh Phụ Ngâm hiện hành. Ông đã cho rằng:
“Dù sao, với bản dịch Chinh Phụ Ngâm hiện hành, chẳng những Phan Huy Ích đã “vạch rõ được tấm lòng của tác giả” như ông đã tự tin, mà còn có những sáng tạo đáng kể, phát huy được sâu rộng hơn nữa tác dụng, giá trị của tác phẩm.”
Tới đây, chúng tôi tưởng Lại Ngọc Cang đã dứt khoát theo Hoàng Xuân Hãn, nhưng sau đó ông thay đổi lập trường mà cho rằng:
“Việc coi Phan Huy Ích là dịch giả Chinh Phụ Ngâm có phần hơi sớm, vì đây mới chỉ là giả thuyết”.
Và ông đã viết rằng:
“trong khi chờ đợi các công trình nghiên cưứ đáng tin hơn, người soạn (Lại Ngọc Cang) sẽ coi bản dịch Chinh Phụ Ngâm hiện hành như là một dịch phẩm hãy còn khuyết danh, chưa dứt khoát nên ghi rõ tên Phan Huy Ích hay Đoàn Thị Điểm”. (Nguyễn Quảng Tuân, sách đã dẫn. Trang 81)
Cái ông Lại Ngọc Cang này rõ là lẫm cẩm! Ông bỏ bao nhiêu là thời giờ, công trình công phu, giao tiếp với những con cháu của Phan Huy Ích, được sự tận tình góp ý của trong và ngoài giới nghiên cứu văn học, để rồi ông không đi đến một kết luận nào để biểu dương cho thuyết của ông. Nghĩa là ông Lại Ngọc Cang nói thật nhiều để rồi không kết luận gì cả. Tóm lại ông Lại Ngọc Cang chẳng có thuyết gí sất! Lại Ngọc Cang “chưa” dứt khoát hay “không thể” dứt khoát???
Kết luận của Lại Ngọc Cang chẳng khác chi kết luận của Hoa Bằng về đề nghị tác giả Khuyết Danh cho bản dịch Chinh Phụ Ngâm, cho đến khi “chứng minh được minh bạch” ai là dịch giả.
Mãi đến năm 1970:…
“…. Ông Nguyễn Văn Xuân đã tìm được ở Huế tập Tân Khắc Chinh Phụ Ngâm diễn âm từ khúc. Quyển này gồm có:
Trang 1 đề: Gia Long thập tứ niên cốc nguyệt cát nhật. TÂN KHẮC CHINH PHỤ NGÂM DIỄN ÂM TỪ KHÚC Chính trực đường.
Trang 2 đề: Tân san Chinh Phụ Ngâm từ khúc tự.
Trang 3 đề: Chinh Phụ Ngâm diễn âm tân khúc nguyên tự.
Bài nguyên tựa chỉ có hai trang, mất trang tiếp theo nên không biết là của ai viết ra. (Nguyễn Quảng Tuân, sách đã dẫn. Trang 82)
Tuy bài “nguyên tựa” bị mất trang cuối, nhưng Nguyễn Văn Xuân vẫn khẳng quyết:
“Sở dĩ tôi biết chắc chắn là của Phan Huy Ích vì nội dung của bài tựa giống hệt với tất cả những gì mà con cháu họ Phan cùng các nhà văn ở miền Bắc đã cho biết từ năm 1926. (Nguyễn Quảng Tuân, sách đã dẫn. Trang 83)
Sau đó, Nguyễn Văn Xuân đã gửi những phát hiện của mình cho Hoàng Xuân Hãn. Và Hoàng Xuân Hãn đã hồi đáp lại cho Nguyễn Văn Xuân như sau:
“Sự hiện diện của bản sao này thật là quý và làm ngạc nhiên.
Thật rõ ràng đã có bản in đời Gia Long và nay không còn dấu vết trước khi thấy bản sao này! Tôi đã đọc kỹ bài nguyên tự. Rất tiếc rằng dã mất phần sau, vậy mất phần lạc khoản: năm, tháng, ngaỳ và ký tên, nhưng đúng như ông đã đoán, chắc chắn rằng tác giả là Phan Huy Ích. Về thời điểm về sự kiện thì câu: “Giáp Tý sơ xuân dư phụng ứng hầu sứ sự tại Bắc Thành và “đúng vào cảnh ngộ Phan Huy Ích”. (Nguyễn Quảng Tuân, sách đã dẫn. Trang 83)
Nguyễn Văn Xuân đã kết luận. Hoàng Xuân Hãn đã kết luận. Và bây giờ Nguyễn Quảng Tuân cũng sẽ kết luận. Nguyễn Quảng Tuân viết:
“Chúng tôi cũng nhận thấy Nguyễn Văn Xuân đã có lý.
Cuối năm Quý Hợi (1803) Tổng trấn Bắc Thành đã triệu Phan Huy Ích ra để hỏi ý kiến về việc đón sứ thần nhà Thanh.
Sự việc này cũng trùng hợp với điều đã được ghi trong bản nguyên tựa của bản Chinh Phụ Ngâm diễn âm tân khúc khắc in năm Gia Long thứ 14 (1815):
“Sơ xuân năm Giáp Tý (1804), tôi phụng mệnh ứng hầu việc sứ tại Bắc Thành (Hà Nội) trong lúc nhàn muộn, giở sách cũ ra đọc, nhân ngứa nghề, mới lấy nguyên âm kiểm điểm thật kỹ lưỡng, có câu rút ngắn, có ý kéo dài, đều dùng từ khúc cộng hai trăm lẻ bốn liên (408 câu). Tôi chỉ cốt ý cho rõ tinh hần lý mạch của nguyên tác, kẻ đọc sẽ lấy làm thỏa thích, chứ không có ý cạnh tranh….’
Hơn nữa, qua sự trình bày về cách diễn âm, chúng ta cũng thấy cùng một ý với bài thơ “ngẫu hứng”:
Văn luật hạt cùng văn mạch túy
Thiên chiên tu hướng nhạc thanh tầm.
Nhàn trung phiên dịch thành tân khúc,
Tự tín suy minh tác giả tâm.
. . . . . . . . .
(Nguyễn Quảng Tuân, sách đã dẫn. Trang 83)
Gần như, phát hiện của Nguyễn Văn Xuân, sự đồng tình của Hoàng Xuân Hãn và nay của Nguyễn Quảng Tuân, dã đủ sức thuyết phục giới văn học. Thế là bà Đoàn Thị Điểm đã mất tác quyền bản dịch Chinh Phụ Ngâm Khúc!
Song le, đối với cá nhân tôi thì lại có một phương cách lý luận khác:
Theo một vài tài liệu thì có nhiều người đã dịễn Nôm Chinh Phụ Ngâm, và Phan Huy Ích là một trong số đó. Nhưng cá nhân tôi cho rằng bản dịch Chinh Phụ Ngâm Khúc phổ quát lâu nay được nhiều người biết đến và được giảng dạy trong trường học bắt buộc là phải của bà Đoàn Thị Điểm!
Lý do hùng hồn nhất chỉ là lối dùng chữ, những mạch thơ mang đầy nữ tính trong Chinh Phụ Ngâm diễn Nôm.
Phan Huy Ích sẽ rất là khó khăn để mà viết những câu như sau, nhất là dưới thời kỳ phong kiến đầu thế kỷ XIX ở Việt Nam:
Ngoài đầu cầu nước trong như lọc,
Đường bên cầu cỏ mọc còn non
Đưa chàng lòng dặc dặc buồn
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền..
Nước có chảy, mà phiền chẳng giã
Cỏ có thơm, mà dạ chẳng khuây.
Nhủ rồi nhủ, lại cầm tay,
Bước đi một bước dây dây lại dừng.
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi
Chàng sầu xa tìm cõi Thiên San…”
Nhà Nho Phan Huy Ích thời đầu thế kỷ XIX chẳng thể nào mơ mộng mềm mềm kiểu “dặc dặc buồn”, rồi lại “bước đi một bước dây dây lại dừng”!
Với lại, đang tưởng nhớ chinh phu, người chồng đi vào nơi kinh hiểm, dù là nhớ đứt ruột, nhưng phải là bà Đoàn Thị Điểm, tức là đàn bà chính hiệu mới dịch được những câu như sau:
Tự tòng biệt hậu phong sa lũng,
Minh nguyệt tri quân hà sứ túc?
Cổ lai chinh chiến trường,
Vạn lý vô nhân ốc.
Phong khẩn khẩn, đả đắc nhân nhan tiều,
Thủy thâm thâm, khiếp đắc mã đề súc…
. . . . .
Chàng từ đi vào nơi gió cát
Đêm trăng này nghỉ mát phương nao?
Xưa nay chiến địa dường bao?
Nội khôn muôn dặm xiết bao dãi dầu!
Hơi gió lạnh người rầu, mặt dạn,
Dòng nước sâu ngựa nản chân bon…
. . . .
Thương nhớ chồng thì rất là thiết tha. Nhưng vì là bản dịch của bà Đoàn Thị Điểm nên bà đã cố chen vào vài câu ghen bóng, ghen gió! Người ta đi đánh giặc, chẳng biết bỏ mạng sa tràng lúc nào, mà bà Đoàn nở đành long dịch câu “Minh nguyệt tri quân hà xứ túc?” là “Đêm trăng này nghỉ mát phương nao?”. Đi đánh giặc, gác giặc, chong giáo suốt phiên canh mà bà hỏi là nghỉ mát ở đâu? Rồi bà còn hoạnh hoẹ nào là “Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn, Dòng nước sâu ngựa nản chân bon”. Trời lạnh, anh buồn vì không có em rồi anh mặt dày mày dạn… làm gì đó ai biết! Ngựa nản chân bon mà!
Ôi thôi! Để chứng minh là bản dịch Chinh Phụ Ngâm bấy lâu nay chúng ta vẫn biết, vẫn học hồi trung học là của bà Đoàn Thị Điểm, tôi có thể dẫn ra hàng nghìn bằng chứng. Ngoài cái vụ ghen bóng ghen gió như vừa trên, còn thêm những so đo “ai buồn hơn ai” chỉ có mấy bà mấy cô mới đủ khả năng và nhạy bén mà… làm như vậy:
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp, ai sầu hơn ai????
Cải lại là chàng buồn hơn nàng hoặc anh buồn hơn em, coi chừng sẽ phải trả thêm những cái giá khó lường khác! Chịu thua đi cho yên, cánh đàn ông yếu đuối nhé!
Trần Nghi Hoàng
Virginia Sept 22-2004 – Đọc lại và sửa chữa July 26 – 2011
Nguồn: Tác giả gửi



















