Phan Ðắc Lữ
“Nhịp cầu cong và con đường thẳng
Một đời anh đi mãi chẳng về đâu”
Hai câu thơ trên trong bài thơ “Tạm biệt huế” được Thu Bồn sáng tác năm 1980, in trong tập “100 bài thơ tình nhớ em đặt tên” nghe có vẻ mâu thuẫn với cuộc đời và thơ anh – Cuộc đời và thơ của một người lính từng xông pha trong khói lửa chiến tranh. Nhưng nếu ai đã từng gần gũi, tâm sự với Thu Bồn và được đọc những bài thơ anh viết những năm sau cùng sẽ cảm nhận được hai câu thơ trên là một dự cảm linh nghiệm đầy hoài nghi và trăn trở của đời anh những năm cuối cùng.
Sau khi lên Tây Nguyên bị đột quỵ trở về, sức khỏe của anh không còn như trước nữa. Quanh quẩn một xó nhà, không còn được tung hoành đó đây làm cho anh phiền muộn. Thời gian này anh sáng tác ít, nhưng lúc nào anh cũng tâm niệm là phải làm một cái gì đó “để đời”. Một tác phẩm văn học vượt lên trên những cái đã có. Khác những cái đã có. Nhưng lực bất tòng tâm.
Những bài thơ anh viết trong ba năm trên giường bệnh, theo tôi đó là những bài thơ có thể “để đời” được trong lòng người đọc lâu dài. Những bài thơ do anh viết theo một phong cách khác trước; tứ thơ mới lạ, ý thơ dồi dào cảm xúc, lời thơ cô đọng, ít ngôn từ.
Khi nhận ra mình không thể chiến thắng với định mệnh; quỹ thời gian chẳng còn bao lâu nữa, trong bài thơ “Tự Bạch” anh thốt lên một cách buồn thương.
“Tôi đâu còn thời gian để giận hờn buồn tủi
trái tim này còn lại chút yêu thương”
Tâm hồn anh giằng co giữa quá khứ và hiện tại, giữa hư và thực: Anh “Ðánh đu cùng Dâu Bể”. Những điều gì chưa hài lòng ở cuộc đời này anh lại đổ lỗi cho Thượng Ðế.
“Thượng Ðế của tôi ơi
Người khó tính nơi này
Người dễ chịu nơi kia”
(Tự Bạch)
Có thể đó là tính ẩn dụ trong thơ anh. Tính ẩn dụ trong thi ca cũng thuộc phạm trù của triết học. Tính triết học trong thi ca làm cho thi ca thêm sâu sắc, ấn tượng. Khi bước đến gần bờ hư vô, anh mới nhận ra những điều không thuận thảo trong quá khứ của đời anh.
“Ðời là thơ
Thơ là đời
Nhưng có khóa
Bạn bè ơi hãy mở cánh tôi bay …”
(Tự Bạch)
Ít có nhà thơ nào làm cả 100 bài thơ tình tặng vợ và nhờ vợ đặt tên cho những bài thơ tình nồng nàn yêu thương đó. Và cũng hiếm có nhà thơ nào ở vào tuổi “cổ lai hy” làm thơ tình mượt mà, lãng mạn đến thế. Bài thơ “ Hát đi em” anh viết tặng Lý Bạch Huệ, khi chị đi biểu diễn dân ca bên Úc, đằm thắm mà nồng nàn:
“Căn phòng mình hồng lên
Khi em ngồi trang điểm
Ngoài kia sân khấu sáng bừng
Màn đã mở rồi em
Khúc đàn bầu réo rắt
Ðiệu dân ca em nhóm lửa phía chân trời“
Ý thơ rất mới lạ, tân kỳ, pha một chút siêu thực:
“Anh gói vần điệu câu thơ như gói bánh
Vo vầng trăng cho trong suốt những ngôn từ”
Trong bài thơ, anh cảm nhận về chiến tranh qua một lăng kính khác, một quan điểm khác có tính nhân văn hơn:
“Bên kia địa cầu em hát
Anh nghe đại dương sóng lặng
Làn điệu dân ca – sứ giả màu xanh
Hát nữa đi em xóa hết chiến tranh”
Ai cũng biết anh rất thiệt thòi về đường con cái: Hai đứa con trai với người vợ trước, sinh ra trong chiến tranh, bị ảnh hưởng chất độc màu da cam – một đứa đã mất, một đứa còn sống nhưng không đủ lớn khôn. Ðó là điều bất hạnh nhất trong đời anh:
“Mười sáu trăng tròn lẻ
Có sớm quá không con
Chất độc da cam
Ba chôn sâu trong lòng đất
Kỷ niệm đau buồn cuộc chiến đấu của ba”
Vì thế, anh rất yêu trẻ. Tình thương yêu ấy anh đều dồn hết cho đứa cháu ngoại lên ba (con của con gái Lý Bạch Huệ). Hãy lắng nghe hai ông cháu thủ thỉ với nhau:
“Chiều nay bếp nhà mình không đỏ lửa
Nồi cơm không cười
Hoa cải lửa thôi bay
Ngoại nhớ lắm ngọn mồng tơi xanh mát
Rau cần rẽ trắng như râu ông già tuyết
Dền đỏ, dền xanh thơm phức bát rêu cua”
Bà ngoại đi vắng. Hai ông cháu ở nhà cùng chờ – ông chờ vợ, cháu chờ bà:
“Cuốc gọi bờ ao
sương mờ như khói
Cháu đứng chờ
bà ngoại chưa về đâu
Tội nghiệp cháu tôi
cứ khuỳnh chân tựa cửa
Ðể cây si trước nhà râu đỏ … lửa hoàng hôn”
(Chiều nay bếp nhà mình không đỏ lửa)
Là một nhà thơ, một người lính, thời trai trẻ từng dọc ngang sông hồ; lúc về già ốm đau cảm thấy cô đơn; anh luôn luôn hướng tâm hồn mình quay về quá khứ với những hoài niệm về thời tuổi trẻ, về bạn bè, Trịnh Công Sơn mất anh thương tiếc khôn cùng:
“Trịnh Công Sơn ơi chiều nay tôi đến
Thiên kỷ đã giao thừa
Cuộc du ca đã đến hồi kết thúc
Ngày tiễn đưa Sơn có triệu bông hồng”
(Bông hồng lặng lẽ)
Nghe tin nhà thơ Bế Kiến Quốc qua đời. Anh tiễn bạn:
“Chúng ta đi cùng trời chiến đấu
Lại về cuối đất tiễn đưa
Dịp may nhớ lại trận Kỳ Cùng
Biên giới đỏ như màu hoa gạo
Ðồng Ðăng ngày ấy hóa Kỳ Lừa
Ta “đụng chén” thịt trâu chết vì trái phá
Hai chú lính nông dân nghèo chí tử đánh nhau”
(Sông Thương)
Nhà thơ có những phút xuất thần để viết nên những câu thơ tài hoa. Bài thơ “Ông Già và Biển” viết tặng Hồ Nghinh tứ thơ mới lạ, ý thơ độc đáo nhưng ngôn ngữ rất bình dị và trong sáng. Bài thơ như một ánh chớp lóa sáng lên trong đời thơ anh:
“Có một ông già ngồi múc nước Tiên Sa
Ðổ vào thau chậu
Rồi sớm mai ông tắm
Sóng nước tự mình tạo ra
Lũ trẻ đi ngang qua hồn nhiên cười giỡn
Chúng có biết đâu núi Chúa ngắm Sơn Trà”
Hay:
“Xưa ông lái thuyền giờ ông lái sóng
Hai tay ghìm bờ cho bến bãi đừng trôi”
(Ông Già và Biển)
Còn một bài thơ nữa – Một bài thơ anh viết mà chưa kịp đặt tên, chỉ trước ngày anh mất độ mười hôm. Ðó là khi anh biết chắc chắn rằng con đường trần ai của đời anh đã khép lại để bước sang cõi hư vô. Bài thơ như một lời trăn trối với vợ con, bạn bè nhân thế. Một lời giải bày đượm chất hiện sinh. Tôi không đủ lời để bình luận, chỉ xin chép nguyên văn ra đây để bạn đọc thưởng thức, chiêm nghiệm và cảm nhận rằng : hai câu thơ trong bài “Tạm biệt Huế” mà tôi đã nêu ở đầu bài nầy, làm cách nhau 23 năm, có phải là lời dự cảm buồn của một đời thơ tài hoa mà cũng nhiều trăn trở.
Bài thơ chưa đặt tên:
Về đi em chợ chiều sắp vãn
Nhớ mua cho anh một gói nhân tình
Non nước cách xa, bạn bè lận đận
Anh nằm đây trò chuyện với riêng mình
Giông bão đầy trời và chớp giật
Cứ vào đây soi sáng “cuộc trường chinh”
Em thân yêu thời gian còn đuổi kịp
Nếu không trọn đời cũng xin trọn kiếp
Làm sao mai thắp nến tiếp bình minh
(Viết ngày 1-6-2003)
Những bài thơ cuối đời của Thu Bồn có thể xem như một bước ngoặt trong đời thơ anh. Một di cảo thơ anh để lại cho mai sau. Ta có thể nói mà không sợ ngoa rằng: Thu Bồn là một trong những nhà thơ lớn của nền thi ca đương đại của Việt Nam.
Kỷ niệm 8 năm ngày mất của Nhà thơ Thu Bồn (17/6/2003 – 17/6/2011)
Phan Ðắc Lữ
Nguồn: Tác giả gửi
Phụ lục
Ông già và biển
Kính tặng anh Hồ Nghinh
Có một ông già ngồi múc nước Tiên sa
Ðổ vào thau chậu
Rồi sớm mai ông tắm
Sóng nước mình tự tạo ra
Lũ trẻ đi ngang qua hồn nhiên cười giỡn
Chúng có biết đâu núi Chú ngắm Sơn Trà
Xưa đỉnh Ô Rây vun trồng mơ ước
Có một ngày về gội tắm nước trường Giang
Nay sông đã cạn rồi
Còn lại biển
Sóng bao dung nhưng trò đời ai biết ?!
Lỡ bước sẩy chân là biển nuốt phăng đời
Xưa ông lái thuyền giờ ông lái sóng
Hai tay ghìm bờ cho bến bãi đừng trôi
4-2003
Thu Bồn
(Nhan đề bài thơ này do nhà thơ Thu Bồn nói miệng tại bệnh viện Nguyễn Trãi trước khi hôn mê)
Chiều nay bếp nhà minh không đỏ lửa
Tặng cháu ngoại
Chiều nay bếp nhà mình không đỏ lửa
Nồi cơm không cười
Hoa cải lửa thôi bay
Ngoại nhớ lắm ngọn mồng tơi xanh mát
Rau cần rễ trắng như râu ông già Tuyết
Dền đỏ, dền xanh thơm phức bát rêu cua
Gà gáy thức
Báo hiệu ngày tần tảo
Ngoại dậy sớm
Nhen từng con chữ
Ðể nuôi thơ
Những lời thơ như bữa cơm tiền sử
Có cả rau mơ rau đắng rau chua
Lời thơ ngoại sực mùi dân dã
Làm sao cháu hiểu
Loại rau cải trời Ngoại nặng nợ với đất đai
Cuốc gọi bờ ao
sương mơ như khói
Cháu đừng chờ
Bà ngoại chưa về đâu
Tội nghiệp cháu tôi
cứ khuỳnh chân tựa cửa
Ðể cây si trước nhà râu đỏ .. lửa hoàng hôn
Suối Lồ Ồ 1-2003
Thu Bồn
Hát đi em
Tặng vợ đi hát dân ca bên Úc
Căn phòng mình hồng lên
Khi em ngồi trang điểm
Ngoài kia sân khấu sáng bừng
Màn đã mở rồi em
Khúc đàn bầu réo rắc
Ðiệu dân ca em nhóm lửa phía chân trời …
Anh gói vần điệu câu thơ như gói bánh
Vo vầng trăng cho trong suốt những ngôn từ
Ký ức quê hương bập bùng lửa đỏ
Trái đất này hoang vắng
Anh ngồi đếm sao rơi
Bên kia địa cầu em hát
Anh nghe đại dương sóng lặng
Làn điệu dân ca – Sứ giả màu xanh
Hát nữa đi em xóa hết chiến tranh
Trái đất hồng lên
Ấm như căn phòng em ngồi trang điểm
Suối Lồ Ô 1-2003
Thu Bồn
Tự bạch
Nhìn qua kẻ hở thi ca
Ngoài kia chợ trời xanh đẹp quá
Ðôi lúc muốn ra chơi
Nhưng sợ nghẽn lối về
Thượng đế của tôi ơi
Người khó tính nơi này
Người dễ chịu nơi kia
Thơ hãy nhớ đây là trần thế
Sổ tiết kiệm ta còn gửi chốn thiên đường
Tôi đâu còn thời gian để giận hờn buồn tủi
Trái tim này còn lại chút yêu thương
Ðời là thơ
Thơ là đời
Nhưng có khóa
Bạn bè ơi hãy mở cánh tôi bay …
Suối Lồ Ồ 1-2003
Thu Bồn


















