Kim-Chi
Tuấn thong thả nhắp một ngụm cà phê thơm nóng từ chiếc ly nhỏ. Hương vị đậm đà làm anh thấy thích thú dễ chịu. Đi công tác chuyến này phải lái xe, lúc đầu làm anh ngán ngẫm, nhưng rồi ngồi xe thong thả qua những cánh đồng cũng làm anh thấy thoái mái, anh say sưa nhìn ngắm cảnh hai bên đường, thấy một thành phố nhỏ anh ngừng chân lại thong thả dùng bữa trưa trước khi đến thành phố kế tiếp để làm việc.
Tuấn cũng không khỏi ngạc nhiên khi vừa vào trung tâm thành phố, nơi có nhiều văn phòng hành chánh của chính phủ, ngay ở bìa phố là những căn phố cũ nghèo nàn… lại là một vài hàng quán của người Việt, anh dừng lại vào ủng hộ “người đồng hương”.
Bước vào một quán ăn nhỏ, bên trong trang nhã lịch sự, người bán hàng là một người đàn bà trung niên, lịch sự chào hỏi:
– Chào ông, ông uống chi trong khi xem thực đơn ạ!
– À… cho tôi xin ly cà phê sữa.
– Cà phê phin hay cà phê Mỹ thưa ông?
Sự lễ độ của người đàn bà làm anh lúng túng:
– Cà phê phin đi… lâu lâu uống cũng ngon.
– Vâng… Mời ông xem thực đơn.
Tuấn đỡ lấy tờ thực đơn trên tay người đàn bà, bà ta toan quay đi thì lại ngập ngừng nói:
– Nói là thực đơn cho ra vẻ… chứ nhà hàng chúng tôi nhỏ, khách chỉ có mươi người, mỗi ngày có vài món đặc biệt… Ông dùng đỡ vậy!
Tuấn gật gù, còn lại một mình anh bậng quơ nhìn chung quanh và nhìn vào thực đơn, đúng như ngươi đàn bà nói, bên trong là vài món của trong ngày, nhưng cách trình bày bằng nét chữ viết tay bay bướm và rất nghệ thuật.
Không khí ấm cúng bên trong cũng làm Tuấn liên tưởng đến những quán ăn nhỏ ở Âu Châu. Có một vài người khách ngồi ở các bàn kế bên, trông ai cũng thong thả an nhàn chứ không hấp tấp như ở thành phố lớn mà anh biết.
Khi người đàn bà trở ra với ly cà phê thơm phức, bà ta nói:
– Ông dùng gì thêm ạ?
– À… tôi thấy có 2, 3 món nhưng chưa biết dùng gì…
Nhớ đến những nhà hàng gia đình thường có món đặc biệt, anh nói với bà chủ:
– Hôm nay có món gì mà thường khách ưa thích… Tôi dùng món đó vậy!
– À… Cơm gà nhé!
Tuấn dễ dãi:
– Vâng, vậy cũng được.
Người đàn bà cảm ơn và quay vào trong.
Tuấn đưa mắt quan sát cái quán ăn ngộ nghĩnh này, anh dừng mắt lại ở một tấm hình treo phía sau quầy tính tiền, hai gương mặt rất trẻ, người đàn ông mặc quân phục, người đàn bà với chiếc áo dài và mái tóc dài tha thướt mà anh đoán là bà chủ tiệm. Trông họ rất hạnh phúc và đẹp đôi, bên cạnh là những tấm hình khác nhưng anh không thấy rõ.
Chẳng bao lâu sau, người đàn bà trở ra với dĩa thức ăn thơm ngào ngạt, nhìn miếng thịt gà vàng óng trình bày rất mỹ thuật bên những hạt cơm béo ngậy thơm phức còn lên khói làm anh thấy đói cồn cào.
Tuấn ăn từng miếng cơm và thịt gà một cách ngon lành. Thỉnh thoảng đưa mắt nhìn sang bàn bên khi bà chủ nói chuyện với khách mà anh đoán là đến nhà hàng rất thường.
– Lâu quá không thấy chị nấu hủ tiếu… chúng tôi thèm quá rồi!
– À để tuần sau, cuối tuần tôi sẽ đi mua thịt và đầy đủ vật liệu mới ngon.
– Chị nấu gì cũng ngon… Cuối tuần nhớ làm thêm bánh ngọt chị nhé. Người khách nhắc nhở.
Người đàn bà im lặng một lúc rồi nói nho nhỏ:
– Cuối tuần này là đám giỗ nhà tôi, tôi sẽ làm ít bánh nhưng chắc chỉ mời khách dùng lấy thảo….
Tuấn nghe chút xót xa trong gịong nói người đàn bà, anh cũng không khỏi thấy tội nghiệp cho bà. Rồi anh tò mò lắng nghe thêm, khi người khách quen hỏi thăm về gia đình, về các con của bà. Hình như bà ta đã sang đây với 2 đứa con sau khi chồng bà mất trong trại cải tạo, bây giờ các con đã lớn và ở riêng. Người khách chép miệng cho hoàn cảnh của bà ta:
– Có quán của chị chúng tôi đến ăn hoài đâm ra ghiền thức ăn ngon của chị, nhưng chị cực khổ quá, bây giờ có một mình chị làm việc bớt lại đi… còn giữ gìn sức khỏe…
Bà ta trầm ngâm một lúc:
– Làm như việc nhà thôi có gì mà cực… tôi lại thích bếp núc. Ngày xưa kia… tôi nhớ khoảng năm 76, 77. Gánh cơm đi bán rong hàng ngày… đó mới là cực!
Tuấn giật mình nhìn người đàn bà lịch sự là vợ của một sỹ quan như bà ta mà phải quày quả bán rong. Và rồi nhìn quán hàng đơn chiếc bây giờ mà không khỏi ái ngại cho bà.
Tuấn len lén nhìn người bà ta, có cái gì dịu dàng rất dễ mến. Nếu như cuộc đời bà ta đã gian truân thì hình như bà đã được đền bù lại một nét khả ái duyên dáng… Thấy Tuấn nhìn mình, bà chủ quán giật mình lên tiếng:
– Ông dùng gì thêm không à…
Tuấn vội vàng:
– Không… tôi no lắm rồi…
– Ông dùng cơm được không ạ?
– Ngon lắm thưa bà… không khác gì ngày xưa ở Việt Nam…
Người khách hàng bàn bên góp vào:
– Ở đây ai cũng ghiền món cơm gà của chị Duyên…
Bà chủ quán cười cười:
– Mấy anh quá khen…
Bà ta vừa nói vừa đi đến quầy và mang đến cho Tuấn một dĩa nhỏ:
– Mời ông dùng tráng miệng cho vui.
Rồi bà ta tiếp:
– Chắc ông ở xa đến
– Vâng! Cảm ơn bà!
– Có dịp ghé qua thành phố này, mời trở lại quán chúng tôi.
– Vâng! Thỉnh thoảng đi ngang tôi sẽ ghé qua.
Và rồi từ đó, cứ mỗi lần đi công tác dù xa gần Tuấn đều tìm cách ghé qua cái quán bên đường của người đàn bà đó. Dần dà thì cũng trở nên quen thuộc, Tuấn lại nghe thêm về chuyện đời tư của người đàn bà đó. Giống như xem một cuốn tiểu thuyết buồn về một người đàn bà ít may mắn.
Nhưng có điều lạ, bà Duyên ít khi nào ủ dột, thường người ta thấy bà với một nụ cười tươi tắn, luôn dịu dàng vui vẻ với mọi người…
Tuấn không làm sao quên được những mẫu chuyện bà ta thường kể lể về những cơ cực khi còn ở Việt Nam, những ngày bán hàng rong để nuôi con dại và dành dụm để đi thăm nuôi chồng ở trong tù, bà Duyên vẫn thường tỉ tê:
– Đi thăm nuôi phải đến hai ba ngày đường, xong rồi lại gánh nặng gồm những thức ăn mà “anh ấy” thích mình chắt chiu để dành. Đi xa lắm… phải thêm mấy cây số mới đến nơi, có khi không vào thăm được, chỉ gửi cho người mang vào, cầu may….
Bà Duyên bỏ lửng cầu nói và đôi mắt long lanh. Và rồi đôi mắt ấy lại sáng lên khi kể về những ngày còn đi học, về “anh ấy” và mối tình thời chiến của bà… Bà ta tường chấm dứt câu chuyện bằng câu:
– Thời đó vui lắm…
Gương mặt bà lúc đó trông duyên dáng và đẹp làm sao.
Ghé sang quán ăn của bà Duyên sau này giống như về thăm nhà, thăm người chị dịu dàng… có lẽ bà Duyên cũng mến người khách ở xa về làm việc. Mỗi lần Tuấn ghé qua luôn được bà ta ưu đãi…
Rồi một lần kia, vừa thấy Tuấn ghé qua, bà Duyên reo lên mừng rỡ, sau đó lại thì thầm nho nhỏ với Tuấn:
– May quá cậu đến hôm nay… Tuần sau tôi đi Việt Nam rồi…
Tuấn hỏi:
– Vậy à… chị về thăm nhà…
– Thì cũng nhân tiện luôn, tôi về lo cho ba các cháu…
Anh ngơ ngác nhìn bà ta:
– …
Bà Duyên tiếp lời:
– Lâu nay tôi có tin cho biết, ờ làng… người ta có kiếm ra một vài cái mộ của các tù cải tạo ngày xưa… em tôi ra đến nơi xem thì cho biết đúng là của nhà tôi…
Tuấn lắp bắp:
– Mừng chị…
– Vâng tôi về mang anh ấy, mang “nhà tôi” sang đây với tôi và các cháu…
Tuấn nhìn gương mặt rạng rỡ của bà Duyên, giống như trong tấm hình treo sau quầy tính tiền. Anh cũng thấy vui theo với người đàn bà ấy.
Hôm đó bà Duyên nói cười không ngớt, bà luôn nhắc nhở đến “anh ấy”, bà lăng xăng sắp xếp, chuẩn bị cho chuyến đi. Tuấn liên tưởng đến ngày trước, khi bà đi thăm nuôi “anh ấy” ở trong tù… cũng chắt chiu, dành dụm như lần này.
Từ giã bà Duyên ra về, Tuấn không làm sao quên được nụ cười tươi tắn tràn đầy hy vọng của bà… “tôi về mang nhà tôi sang đây với tôi và các cháu…” câu nói của bà Duyên còn vang vang trong đầu Tuấn.
Dạo sau này Tuấn ít được sở đưa đi làm xa. Anh không có dịp ghé qua cái tỉnh lỵ nhỏ để thăm quán ăn của bà Duyên, dù vẫn nhớ đến cái quán bên đường thân thuộc. Cứ mỗi lần nhìn thấy một tấm hình người đàn bà Việt Nam quay quả một cái gánh hàng trên vai, gương mặt nhẫn nại, Tuấn lại nghĩ đến bà Duyên, đến người đàn bà sanh ra trong thời chiến… Bà Duyên đã chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống, nhưng lúc nào cũng vui tươi, cũng dịu dàng luôn đem lại niềm vui cho những ngừơi chung quanh.
Tuấn không làm sao quên được khuôn mặt nhân hậu tươi sáng của người đàn bà đó. Giờ thì nụ cười của bà ta chắc rang rỡ như ngày còn son trẻ, e ấp đứng bên cạnh người yêu giống trong tấm hình mà Tuấn vẫn thấy sau quầy tính tiền ở quán… Chắc bà sẽ ra vào luôn miệng nhắc về “anh ấy” người yêu muôn thuở của bà, ít ra giờ họ cũng có nhau… bà cũng đã làm được một điều hằng mơ ước:
… nhà tôi sang với tôi và các cháu…
Câu nói dịu dàng thân ái làm sao! Mừng cho chị, chị Duyên nhé!
Kim-Chi
Nguồn: Tác giả gửi


















