Nốt: “You Must Revise Your Life”. William Stafford

Posted: 06/01/2012 in Ngu Yên, Tùy Bút / Tản Văn / Ký Sự

Ngu Yên


William Stafford (1914 – 1993)

Sáng tác đến với đời tôi như hai dòng sông nhập lại. Một dòng rất dể nhận ra. Đó là thời gian, không gian, nơi chốn, sự kiện, con người. Dòng còn lại như có gì bí ẩn. Đó là ý nghĩ trong nội tâm. Những mộng tưởng, những thôi thúc khó hiểu. Chính tôi cũng không rỏ.

Dòng thứ hai chảy theo nhịp độ riêng của nó. Bắt nắm những chuyện xảy ra bên ngoài nhưng không hoàn toàn giống như vậy. Thông thường những câu chuyện vào đến nội tâm không còn thuộc về nơi tôi đang sống. Cho dù ngày tháng nói sao cũng vậy, cho dù xung quanh đòi hỏi thế nào, nội tâm tôi sau khi thu hút thật nhiều sẽ tự chọn lấy những sự kiện, theo cách riêng của nó.

Vào đầu cuốn sách You Must Revise Your Life trong loạt sách viết về sáng tác, William Stafford kể lại những dấu ấn trong đời sống đã đưa ông vào đường sáng tác. Những kỷ niệm thời thơ ấu với mẹ cha, bằng hữu. Những lây lất xông pha vào đời. Những dữ liệu đã và sẽ là những chất liệu cho sáng tác của ông.

Trở thành một người viết lách một phần chỉ là học những thủ thuật và tiến trình của ngôn ngữ. Văn chương thành hình bởi thái độ của con người, cách suy tư, khuynh hướng trí tuệ và tình cảm.

Chúng ta  đều có thể học tập và áp dụng  những điều trên vào viết lách, luyện tập nhiều lần cho bản lãnh hơn nhưng nếu không có sự bảo đảm của cá tính chúng ta không thể giữ vững những nhận thấy, những quỹ đạo của sáng tạo gợi ý. Chúng ta có thể học, có thể biết mà vẫn không hiểu.

Nhận thức được sự cần thiết của cá tính không chưa đủ. Chúng ta phải sở hữu nó. Đây là một đặc ân, gần như là quà tặng. Chúng ta không thể tự nhiên có, không thể tính toán để chiếm lấy. Nhưng nó có thể đến khi ta lắng nhập vào đời sống viết lách với kiên nhẩn và lòng tin tưởng. Như bình minh, khi nó đến, đến với tất cả ánh sáng. Không thể khẩn cầu, không thể đòi hỏi.

Tôi đọc cuốn sách này, ấn hành 1986. Xuất bản do đại học Michigan, trong loạt sách: Poets On Poetry. Thỉnh thoảng đọc lại, vẫn thấy thú vị. Cho dù giữa ông và tôi có rất nhiều dị biệt. Nhất là niềm tin vào tôn giáo. Tôi chọn ghi lại những ý nghĩ về tác phẩm này, phần lớn vì sự khác biệt sẽ là cách phản chiếu con đường sáng tác của tôi. Điều lớn lao mà tôi học được từ loạt sách Poets On Poetry là tôi sáng tác một mình cùng một lúc sáng tác chung với nhiều người xung quanh. Sáng tác là con đường cô đơn nhưng không phải đi cô quạnh. Tôi đi với nhiều người cô đơn khác và cho dù đi với nhau, chúng tôi vẫn một mình.

William Edgar Stafford ra đời ngày 17 tháng 1 năm 1914 tại Hutchinson, Kansas. Tốt nghiệp kinh tế tại đại học University của Kansas năm 1937. 1938, xong Master về Anh Ngữ. Dạy học tại trường Lewis and Clark. Ông dạy vế văn chương và sáng tác. Về hưu 1980. Xuất bản hơn 60 tác phẩm thơ và văn xuôi.  Traveling Through The Dark, 1962, là một trong những tập thơ quan trọng của ông. Đoạt giải National Book Award 1963. Tác phẩm được đánh giá cao là The Rescued Year, 1966; Stories That Could Be True: New and Collected Poems, 1977; Writing The Autralian Crawl, 1978; An Oregon Message, 1987.

Ngày mai chúng ta sẽ rời nơi đây
Có người vui, có người buồn
Có kẻ trở về quê quán
Có kẻ lang thang cho đến khôn cùng

Hai tuần qua, một tuần qua, một ngày qua…
Ngoảnh  mặt lại đã mất
Bạn biết rồi, đó là giao ước
Không đáng quan tâm

Ê, nếu lần này OK
Thế giới có thể gây kinh ngạc
Tất cả chúng ta đi về đâu
Không ai biết
Loanh quanh không câu trả lời
Tôi nghĩ rằng cũng tốt thôi
(Đọc Leaving a Writers’ Conference)

Đa số thơ của William Stafford có chữ nghĩa, câu cú rất bình dị. Đọc là hiểu nghĩa liền. Vừa hiểu xong, lại có cảm giác ông muốn nói điều gì khác. Đi ra khỏi buổi hội nhà văn, phảng phất như đi ra khỏi đời sống nhưng lại cảm được như đang xa lìa chốn văn chương. Để rồi nhận ra những cái cớ trong thơ để khơi dậy nhận thức MẤT. Mất cái gì? Cái gì rồi cũng mất. Thái độ ra sao? – …cũng tốt thôi..

Đa số thơ của ông thuộc về dạng siêu hình. Ông thuộc loại người tin tôn giáo. Một giáo đồ tốt. Thơ ông có hoài nghi nhưng không đánh đổ thần tượng. Thơ ông có câu hỏi bỏ lững không trả lời nhưng qui về một mối không cùng cực bi quan. Thơ ông thâm trầm nhưng không nghiệt ngã.

Đọc You and Art.

Lầm lỗi anh viết thành âm nhạc
không ai nghe
Lạc lối chân tìm ra điệu nhảy
đi lang thang
Anh sống nơi vấp ngã
dẫn về quê nhà

Năm tháng qua khổ đau che mặt
vì tài năng còn thuở thiếu thời
Rồi anh đã tìm ra lối ngã
nhờ sờ theo rong rêu trên đá

Anh khám phá nhạc trước khi thành âm
Như xa vào núi cao
Tuyết tinh khôi rơi xuống lũng

(1. Where “Yellow Cars” Comes From)

Vài chiếc xe màu vàng chạy ngang
Em nhìn theo trong ánh đèn lấp lóe
Hy vọng: Người nào đó, có thể là tôi
Không để ý xe màu nâu
Lầm lẩn xe màu xanh
Lơ là xe màu trắng
Nhưng xe màu vàng em quay lại nhìn
Hy vọng kéo dài cho em hạnh phúc.
(Đọc Yellow Cars)

Viết bài thơ không khó. Như bơi vào trong rọ bắt cá. Phân tích bài thơ, sẽ rất khó. Như bơi ra khỏi rọ cá. William Stafford kể lại những chi tiết, những thay đổi từ lúc mới manh nha bài thơ cho đến khi thành hình. Từ đầu tháng Tư năm 1980 cho đến gần cuối tháng.

Tôi không nghĩ như ông. Phân tích một bài thơ, cho dù là chính tác giả cũng chưa chắc đã cạn lời. Có những hình tượng, ý tứ hoặc ngôn từ xuất hiện trong lúc làm thơ ra ngoài giới hạn của ý thức. Phân tích dựa vào luận lý từ ý thức. Đôi khi từ cảm nhận. Có những câu thơ, tứ thơ xuất hiện như chớp. Nằm xuống giấy mực. Không thể giải thích, khó thay dời cho dù ý nghĩ nhận ra chỗ sai lầm. Như trường hợp của Hàn Mặc Tử và chữ Phượng Trì.

Nhận chân ra điều này có lợi cho người làm thơ. Khi trôi nổi, chìm đắm với với mầm hạt của một bài thơ sẽ tạo điều kiện cho vô thức hoạt động trong nội dung này. Khi thành hình vào ngôn ngữ, vô thức sẽ gửi đến những hình tượng, tình ý, tứ thơ qua trực giác một cách bất ngờ. Và chỉ lúc đó mới bắt nắm được. Sớm hơn, muộn hơn đều không thấy. Có lẽ, khi Bùi Giáng viết rằng chạm vào cành Sim thì trùng trùng rừng Sim rung động, để ẩn dụ cảm súc từ vô thức.

(2. A Witness for Poetry)

….Theo ý tôi, bài thơ không có gì đặc biệt. Chỉ là ngôn ngữ không lầm lỗi. Dỉ nhiên, đây là cách tôi muốn nói. Theo tôi, mỗi chữ đều giống dạng xuất thần, đã rơi xuống vào chủ đề của bài thơ. Tôi nghĩ rằng bài thơ là một bài nói, hương vị và xác nhận. Chữ nghĩa thường dùng để gửi đến một ai mà ta thương cảm. Có thể trực tiếp. Mang theo những cảm nghiệm bình thường. Tôi nghĩ rằng bài thơ là như vậy…

…Với tôi, văn phạm chấm phẩy trong thơ là để giúp người đọc theo dỏi cách xây dựng và sắc thái của điều muốn nói. Tôi biết có nhiều thi sĩ rất cực đoan về việc này. …Họ cho rằng văn phạm đã cản trở họ. Tôi cảm tưởng rằng văn phạm chấm phẩy ngắt câu là một sáng kiến tốt. Đôi khi chúng ta cần phải nhào lộn sự vật vì có lý do riêng. Ngoại trừ có chủ ý, tôi luôn luôn sử dụng luật văn phạm hiện đại trong ngôn ngữ xã hội hiện nay.

Người ta vấp ngã và lang thang
khi không biết đúng chữ
rồi lạc lối trong thẩn thơ

Có thể nào anh đứng giữa đường
nói cho người lạ những mật mã
suốt ngày đêm?
Không thể được
Nhưng đôi khi lời nói tình cờ
chia xẻ cùng người khác

Đây là gói chữ
Chương trình làm mật mã
dẫn kẻ xa lạ đến gần nhau
(Đọc Passwords)

Đôi khi dòng sông đong đá hỏi tôi về lầm lỡ
Hỏi rằng có phải tôi làm nên đời tôi
Lặng lẽ từ từ vào tâm tưởng
Vổ về hay làm đớn đau
Hỏi tôi khác biệt giữa yêu và hận

Tôi sẽ lắng nghe em nói
Chúng ta quay lại nhìn nhau
trong dòng sông lặng im chờ đợi

Chúng ta biết
dòng nước vẫn còn kia
ẩn dấu rồi xuất hiện
chảy suốt đoạn đường dài
giữ mãi sự tĩnh mịch

Những gì dòng sông nói
sẽ là lời của anh
(Đọc Ask Me)

– Khi nói về làm thơ, ông thường nói rằng để cho mọi sự đến tự nhiên?

– Đây là điều tôi muốn nói khi trò chuyện về viết lách. Tôi cho rằng việc quan trọng là để trình tự của sáng tác tự mang đến sự kiện hơn là viết xuống những gì đã có sẳn. Một số người cho rằng sáng tác chỉ là phong thái như lấy chữ nghĩa đã tồn trữ trong tâm hồn. Tôi thích thú hơn khi một tâm hồn không có gì rồi tự nó tạo ra đôi điều. Việc gì sẽ xảy ra lúc ấy? Tôi luôn luôn muốn người ta thư giản đủ để quan tâm đến những gì sẽ thật sự xảy đến trong lúc đang sáng tác. ông hiểu ý tôi không?

Ở quan điểm này, lời nói của ông là chính xác. Sáng tạo xảy ra trong tiến trình sáng tác. Những suy tư, sắp đặt trước đó, chẳng qua là sơ đồ. Khi hoàn tất bài thơ có khi khác hẳn. Những chi tiết bất ngờ xuất hiện và những biến hóa ngoài dự tính mang tính chất sáng tạo làm cho bài thơ sống động và khác biệt. Làm thơ gạch bảy màu như nhà thơ Đông Hồ dể trở thành thợ thơ. Ngày nay mấy ai nhớ được thơ của ông. Cho dù một thời tên tuổi Đông Hồ vang vang từ Nam ra Bắc.

Bản chất của thơ là bất ngờ. Ý tứ của thơ là bất chợt. Bản chất của sáng tạo là không biết trước cho dù có thể kế hoạch trước. Sản phẩm sáng tạo và sản phẩm lập lại là hai sản phẩm khác nhau. Bài thơ cũng vậy.

Làm thơ như đi băng rừng. Có phương hướng. Có mục đích ra khỏi rừng nhưng không rỏ sẽ đi như thế nào? Thấy gì? Gặp gì? Cảm giác ra sao? Nhanh hay chậm? Dài hay ngắn?

Đi vào hành trình sáng tác với hình ảnh và ý tưởng ban đầu nhưng thông thường không phải là hình ảnh và ý tưởng cuối cùng. Không biết bài thơ sẽ dài hay ngắn? Câu cú ra sao? Chữ nghĩa đến thế nào? Lại không biết bất chợt hoa nào sẽ nở ven đường? Con chim nào sẽ hót? Con suối nào mộng mơ? Nếu biết trước hết những sự kiện này, người làm thơ đang đi trong khu rừng của Disney Land. Rừng giả. Và bài thơ giả.

Ai cũng nói sáng tạo là cần thiết cho người nghệ sĩ. Sáng tạo làm tác phẩm có giá trị. Nhưng liệu người nghệ sĩ có biết gì về sáng tạo? Biết sáng tạo đã là khó. Hữu dụng được sáng tạo lại càng khó hơn.

Sáng tạo không phải là công cụ. Không phải phương pháp. Không phải có thể cầm nắm để sử dụng chính xác. Sáng tạo càng không phải là phép lạ. Không phải nguồn lực siêu nhiên. Không là cái gì ghê gớm để tự hào mà chỉ là một khả năng riêng của người nghệ sĩ.

Bất cứ người nghệ sĩ chân chính nào cũng tự biết mình có sáng tạo hay không? Còn có thể biết khả năng này của mình mạnh hay yếu? cao hay thấp? thường xuyên hay thỉnh thoảng? Nhưng không phải người nghệ sĩ nào cũng biết áp dụng sáng tạo vào đúng đoạn đời và sản phẩm của họ.

Đã là sáng tạo thì biết lúc nào, làm sao biết ở đâu mà áp dụng?

– Suy tư, chìm đắm, nuôi dưởng một điều gì lâu ngày, sáng tạo sẽ đến, cho dù bất chợt.

– Sẳn sàng và nhận biết sẽ dùng được sáng tạo khi nó xuất hiện.

– Áp dụng sáng tạo với tất cả khả năng thực hiện, với lòng đam mê, không có thời gian không có không gian không có xung quanh không có vật chất, may ra sáng tạo sẽ thành hình tác phẩm.

May ra? Vì nếu không có may mắn chưa chắc đã đạt được. Nguyên lý bất định của may mắn luôn luôn hiện hữu ở bất kỳ một phút giây nào trong đời sống. May mắn của mỗi người, may mắn của gia đình, may mắn của tập đoàn, may mắn của quốc gia, may mắn dân tộc, may mắn của thiên hạ, kết hợp thành định mệnh chung cho nhân loại. Thơ cũng chỉ là một phần nhỏ mà thôi.

Trong vở kịch, Army không muốn đóng tuồng
vậy cô kéo màn
Sharon muốn đóng vai  Army
Nhưng Sam không cho
cậu nói không đúng
Steve trả lời “cũng đuợc”
“Tôi nhận vai này nhưng không thích”
Cuối cùng Army là Army
Vở tuồng hủy bỏ
Sharon bật khóc
(Đọc First Grade)

Người sáng tác không phải là người có điều để nói. Ông là người tìm thấy tiến trình sẽ mang ra nhiều mới lạ mà ông không biết đến nếu ông không bắt đầu nói. (Writing the Australiant Crawl). Ông William Stafford hướng dẫn về sáng tác, nhất là làm thơ. Câu hỏi mà người nghệ sĩ Việt cần đối diện là

– Sáng tác có dạy được không?

Đúng hơn: – Sáng tác có học được không?

– Có nên học sáng tác không?

– Lửa sáng có dạy được không?

– Lửa cháy có học được không?

– Có nên học dùng lửa không?

Ngu Yên
Nguồn: Tác giả gửi

Đã đóng bình luận.