Thiền, ngoại tập

Posted: 09/01/2012 in Hồ Đình Nghiêm, Tùy Bút / Tản Văn / Ký Sự

Hồ Đình Nghiêm

Thư viện Sáng Tạo (treo vào thế giới ảo) không có phần phản hồi dưới những bài viết, âu đó cũng là điều tốt. Phản hồi thường giới hạn chữ, không cho viết dài, một thứ “thiền đạo tu tập”, nói ít hiểu nhiều. Tôi là đứa chậm hiểu. Nói ngắn: không thông; nói dài: chưa chắc đuổi kịp. Vì thế tôi ngán thiền, chẳng dám lai vãng tới. Tam đoạn luận này bày ra cớ sự ngày hôm nay: Không hiển thị ý kiến người đọc thì người đọc đành viết hẳn một bài (vượt quá giới hạn số chữ mà những diễn đàn ra nghiêm luật cấm nói dai).

Cũng như nhà văn Song Thao, tôi rất mặn câu chuyện anh dùng nó để dẫn nhập bài viết “Thiền” mới đây. Chuyện gì? Ồ, chuyện cái ông sư cõng một cô gái cho “quá giang” nơi hiểm địa. Vì sao lôi kéo mặn với chay vào cuộc? Dạ thưa, tôi khoái nhìn cái hình ảnh ấy quá. Khoan đề cập tới hậu ý, cái thuyết giảng vô ngôn thâm thúy nọ kia, người phàm mắt thịt như tôi vẫn nhìn ra ở đấy một hình ảnh đẹp. Đẹp ở ngoại cảnh: heo hút, vắng lặng, sương mờ tỏ, chim chiêm chiếp gọi trên cành, suối tình tự róc rách dạt dào tuôn qua đá khe… và ô kìa, sao lại có một thiếu nữ đứng tần ngần bên bờ lau ngọn cỏ thế kia, mình ên nơi hoang vắng chẳng dấu chân người? Thẩm mỹ nọ còn lưu giữ ở sự tương phản: Hai tấm áo cà sa kẻ tu hành đối chọi cái lẻ loi muôn đời mềm yếu của phái nữ, mềm yếu nhưng có thể khuynh đảo vua chúa, nghiêng thành nhà tan cửa nát nước mất.

Câu chuyện sẽ hỏng nếu chúng ta hoán đổi, cho cô gái kia độn thổ rồi trồng thế một thằng con trai vô duyên đi nhặt củi rừng hoang. Rách việc, sư cõng một cậu con giai thì thường tình, chả có vấn nạn nào đẻ ra. Lôi thôi và mơ mòng (chữ của Bùi Giáng) chính ở chữ Thị nọ. Nguyễn thị Rắc Rối,Trần thị Nhiêu Khê, Phan thị Phân Ly, Hồ thị Tai Ương, Lê thị Bể Khổ…

Như có thưa trước, tôi oải chuyện thiền. Lòng tôi tràn ngập một cõi u mê. Tôi mường tượng khuôn mặt cô gái ấy hẳn lộ diện sự lo âu thắc thỏm trước bao chướng ngại giữa chốn đèo cao núi cả. Mô Phật, không dưng nhà sư trẻ tuổi ấy đã xuất hiện như phép màu: khù khờ ông trời độ. Màu áo vàng sư khoác thân làm chốn sơn lâm cùng cốc đồng loạt tỉnh ngủ để bừng con mắt chói ánh hào quang. Một cái lưng khom xuống, chuỗi tràng hạt đeo ở cổ đong đưa tòn ten trước ngực mà ngực thì đang dấu kín một trái tim đập sai nhịp, hụt hẫng. Sư độc thoại: Mời Em lên ngựa (chữ của Luân Hoán). Và Em đã hân hoan thực thi nhoẻn một nụ cười đẹp khủng. Cô an tâm, chí ít thì cô nghĩ: Wow, còn gì ga-răng-ti hơn khi ôm siết thân thể của kẻ tu hành để dìu ta qua bến mê. Tạ ơn trời Phật, gặp thảo khấu Lương Sơn Bạc e con chết mất, hoa lạc giữa rừng gươm và dứt khoát hoa ấy sẽ tả tơi biết dường nào! Ngọc nát vàng phai. Chúng bắt làm thê của thằng nọ lại thiếp của đứa kia. Luân lưu như nước chảy đá mòn. Buồn bất tận ngôn!

Câu chuyện không nói rõ cô gái sẽ tụt xuống ở khoảng nào. Lòng độ lượng của sư chỉ giới hạn bằng bề rộng của con suối thôi sao? Qua khỏi ướt át và rồi vất ngay xuống chỗ khô khan? Sư có “cởi áo mù sa, trút quần phong nhụy cho tà huy bay”? Phủi tay trước lời cám ơn của nữ thí chủ. Nhắm mắt trước cái trêu ngươi: cô ấy đang sửa lại áo xống xộc xệnh hớ hênh nghèo chẳng có nội y che chắn bảo mật. Bắt ướt áo phải áo ướt, cho đôi bồng đảo mới được phần đảo điên! Sư quay đầu: Thiện tai! Thiện tai! Và sư dông một lèo, còn mong gì lần tái ngộ người ơi!

Tôi có đọc Thủy Hử, ngày còn bé, tiếc thay trong truyện dã sử ấy không có tả cảnh Lỗ Trí Thâm cõng đờn bà qua suối khe. Chỉ vẽ ra đó là nhà sư tự làm cách mạng phá giới: uống rượu, nhậu thịt chó, gặp cảnh bất bình rút đao tương trợ, vân vân và vân vân. Hmmm, cô mà gặp cái nhân vật cổ quái ấy thì chúng ta đã không có cái công án thiền để hôm nay lạm bàn. Về tới đích, hai nhà sư có trao đổi cái “sự cố” giữa đàng làm “ùn tắc” lấn cấn. Xin nhắc lại: Người một trách người hai: Là người tu hành, đệ không thấy hành động ấy là việc chẳng nên làm sao? Người hai nói: Ậy, đệ vất cô ta tự ban trưa, mà đến chiều huynh vẫn còn lay động một hình bóng, cõng cô ta từ suối về tuốt cổng chùa! Lời qua tiếng lại ấy có cái hay mà cũng chen vào sự dở. Người một dở ở chỗ: là người tu hành, việc làm thiết thực nhất của anh là ra tay tế độ, giúp kẻ hoạn nạn lỡ bước đường cùng, sá gì một cái lưng vững chãi cho kẻ tay yếu chân mềm có nơi nương nhờ chỉ trong khoảnh khắc. Tu vậy là hỏng, cứng ngắc giáo điều nội quy trường ốc sách vở. Than ôi! Học mà không hành thì tới chừng mô mới ngộ. Tiếc lắm thay! Thật đáng trách! Tôi nghĩ e lời kia thốt ra từ một nỗi tị hiềm. Sao đệ không để huynh “làm phước” cõng cái tấm thân lụa là kia qua suối? Và tự hỏi, hương mùi cô ấy có làm ta lung lay việc trì chí đọc kinh? Còn người hai, kẻ “diễm phúc” tiếp cận nữ giới, ngực mềm đàn hồi xao xuyến trên lưng khi dọ dẫm chân hoang mang qua suối, nước phủ đá cuội rêu xanh trơn trợt dễ vấp ngã. Tay bấu chặt hai bắp chân trắng ngần sợ nữ thí chủ gặp thêm hoạn nạn. Hơi thở cô gái bấn loạn bên tai. Tự trấn an: “Ta không vào địa ngục thì ai vào?” (Lại đẻ thêm công án!). Chỉ một đoạn đường ngắn nhưng gieo biết bao chấn động sau khi trải qua (sạn đạo). Quá trình tu tập không khéo mà rơi ùm xuống suối trong phút giây lòng nhuốm lụy trần. A di đà Phật, đệ tử vốn tạo các vọng nghiệp, nguyện ngày an lành đêm bình an… Và lảo đảo về tới chùa để trả nợ một chất vấn: tui vất y thị xuống từ khuya rồi mờ. Hổng nói nữa, dị đi nghen? Thực sự, theo tôi nghiệm, lời kia có mang ít nhiều ngụy biện. Anh nói cứng vậy đó, chứ đêm nằm lẻ bóng sau hậu liêu, hẳn trí óc anh còn vọng động một hồi tưởng. Tôi rất mong cho anh sẽ thức trắng trong canh khuya để mê đắm một ảnh hình, có như vậy anh mới tìm ra một đối tượng buộc lòng anh phải chiến thắng, để cuối cùng nghiệm ra chẳng có điều gì vĩnh hằng. Anh đạt đạo và nhớ về tháng ngày cũ là nhớ tới một nhan sắc cực đẹp, một đóa hoa nở bên suối, anh mang hoa đi về chùa và mọi thứ thảy đều phù vân. Hoa sẽ rụng, tâm tính mình sẽ đổi thay, kinh sách là người bạn chân tình giúp mình ngày mỗi hướng thiện.

Tôi có gặp nhà văn Phan Tấn Hải đôi ba lần, những lúc anh có việc phải qua Montréal. Lâu rồi, thời mà anh viết và xuất bản tập truyện “Cậu bé và hoa mai”. Lâu rồi, có nghĩa là khi anh chưa tìm ra một nửa của anh. Ấn tượng ban đầu đó là một người hiền lành rất mực, dễ thân thiện, dễ kết giao. Đồng thời bao phủ quanh người ấy là một tấm màn khó vén mở. Anh hay nói tới những công án, anh hay dẫn dắt câu chuyện tới những điển tích trong sách nhà Phật. Đường xa, từ Cali. qua, mệt mỏi nhưng anh có thể trấn áp để thức tới sáng hàn huyên tâm sự như thể bắt gặp kẻ tâm giao. Hôm ấy, tôi nhìn thấy trán anh có một khối u, khá lớn. Chưa nói ra thắc mắc, anh đọc ánh mắt tôi để hiểu, rồi phân giải, vẫn bằng giọng nói chậm rãi, hay ngắt quãng: À, tai nạn, tai nạn. Hôm qua Phật chỉ trăng hỏi cái gì đấy? Tôi thành tâm trả lời và cục u này là do Phật dí ngón tay vào trán. Chúng tôi thường la cà ngoài quán cà-phê, cả hai hút nguyên bao thuốc (ôi, thời oanh liệt nay còn đâu!). Anh luôn uống cà phê đen, đậm đặc và nếu cần anh có thể kể một lô chuyện tục. Nhắc chuyện cũ bởi hình ảnh kia có vẻ như không khớp vai một Nguyên Giác Phan Tấn Hải, người vừa bỏ công soạn dịch và chú giải, in thành sách, không bán, chỉ để tặng kẻ chú tâm sách đèn. Từ chốn xa, anh có gửi cho cuốn “Những lời dạy từ các thiền sư Việt-nam xưa” cùng dăm ba cuốn khảo sát, thuộc lĩnh vực Phật giáo. Đó là một công đức đáng trân trọng, muốn khai nhãn cho những kẻ mê muội đắm mình giữa bể trầm luân. Cư sĩ Nguyên Giác, với tôi, không khác gì vị sư mang thân cõng cô gái qua suối trong câu chuyện cụt ngủn kia. Ngắn quá cũng mất sướng.

Tôi u mê, như có thưa trước, tôi luôn sân si đuối lòng trước những vẻ đẹp của mọi người nữ. Thị này thị nọ. Có sống lại kiếp sau tôi cũng không ngộ thế nào là một trang kinh huyền hoặc để có thể nhắm mắt trước vẻ đẹp hiển linh của phụ nữ mà thượng đế mệt mỏi sáng tạo nên. Tôi là Trư Bát Giới mà mụ bà bắt lộn thành Tôn Ngộ Không. Tôi sẽ lén bỏ thầy Đường Tăng trên đường thỉnh kinh để sẵn lòng chui vào hang ổ của ma nữ. Mượn thơ của cố thi sĩ Nguyễn Tôn Nhan: “… rồi người đi tôi khóc trên đồi, mưa xuống cho lòng lạnh chết thôi, thiên nhiên xanh quá tôi vừa thấy, cũng đủ cho tôi dại cả đời, chiều vui trời ướt nhẹp mây gù, sãi về chùa tôi sắp theo tu, người không biết được thầy tăng nhỏ, đã nhờ người rên suốt đêm thu… nơi tôi có triệu cành vô sắc, gửi cho người chết ngợp đam mê…”

Nếu có duyên, trên đường hành hương tạt ngang Montréal, cư sĩ Nguyên Giác có thể lại gặp tôi. Lại la cà cà phê thuốc lá (lạc hậu?). Thiền là gì? Tôi hỏi và như một quá vãng nào đã khuất, tôi nói chuyện “trần tục”: Nếu tôi là nhân vật trong công án kia, tôi sẽ cõng cô gái qua suối và tiện thể, được trớn, tôi sẽ nhắm hướng bờ cây bụi cỏ mà giấn liều ẳm nhau. Hệ quả? Trán tôi nổi một cục u, lớn bằng trái chanh. Nguyên Giác than: Sao tới giờ này đệ vẫn khổ thân đèo bồng một bóng hình hư ảo!

Xin cho tôi thở hắt hơi cuối: Cuộc đời này không phải là một ảo tưởng sao? Một trần thế mộng!

Hồ Đình Nghiêm
Nguồn: Tác giả gửi

Đã đóng bình luận.