Xuân về đọc lại bài thơ Nguyên Nhật của Lê Cảnh Tuân

Posted: 12/01/2012 in Ngô Đình Miên, Tùy Bút / Tản Văn / Ký Sự

Ngô Đình Miên

Mùa xuân năm đó, tôi tình cờ gặp được bài thơ Nguyên Nhật của Lê Cảnh Tuân trong một tuyển tập văn học[1]. Tôi cố gắng đi tìm những tác phẩm khác của ông trong các tư liệu văn học và cả trong sử liệu, nhưng sự nghiệp văn chương của ông cũng chỉ còn lại không bao nhiêu bài. Có lẽ những sáng tác của ông đã bị giặc Minh, khi thực hiện “đốt sách giết học trò”, đã bị hoá thành mây khói. Nhưng thật may mắn, một bài thơ của ông viết trong nhà tù của giặc Minh vẫn còn được lưu lại. Nhớ về cố hương, Lê Cảnh Tuân đã gởi gắm nỗi lòng mình vào bài thơ:

Nguyên Nhật

Lữ quán khách nhưng tại
Khứ niên xuân phục lai
Quy kỳ hà nhật thị
Lão tận cố hương mai
(Hoàng Việt thi tuyển – Bùi Huy Bích)

Dịch nghĩa:

Ngày Đầu Năm

Khách còn ở lữ quán
Mùa xuân năm ngoái nay trở lại
Ngày về chưa biết chừng nào
Cây mai ở quê cũ  đã già hết

Bài thơ chỉ hai mươi chữ, rất ngắn, đọc hết nhanh, nhưng đã làm cho tôi lặng đi, lòng thấy xốn xang khó tả. Tôi thật sự xúc động, rồi tưởng tượng ra chính mình là Lê Cảnh Tuân, một năm qua nằm trong nhà ngục của giặc Minh, tuy ý chí còn mạnh mẽ, muốn vượt thoát ra khỏi cảnh tù đày, như ông đã viết trong bài thơ  “Vô ý”:

Thân như lão hĩ, tâm nhưng tráng
Nghĩa hữu đương nhiên từ bất tì

Thân dẫu già rồi lòng vẫn trẻ
Nghĩa nên làm ấy chết bao nài

Nhưng chỉ là sự vô vọng mà thôi. Cả người con trai trưởng của ông cũng vì theo cha mà bị mắc vào cảnh ngộ tù đày trên đất giặc. Tôi lại liên tưởng, nếu Nguyễn Phi Khanh, ngày bị giặc Minh bắt sang Tàu, nơi Ải Chi Lăng, không cương quyết buộc con trai mình là Nguyễn Trãi phải quay trở về để lo việc cứu nước, thì không biết dân tộc ta có bản “thiên cổ hùng văn” “Đại cáo bình Ngô” không?

Hôm nay là nguyên nhật, ngày đầu của năm mới. Đã bước sang năm thứ hai trong tù ngục rồi. Ngày này là ngày sum họp của mọi gia đình, ngày con cháu mừng tuổi ông bà cha mẹ khang an trường thọ. Ông bà, cha mẹ thì lì xì phong bao cho cháu con. Rồi đốt pháo, những âm thanh đì đoàng làm cho con người thêm hứng khởi. Người già ngồi nhâm nhi li rượu thơm, ngắm nhìn những bông hoa mùa xuân, đặc biệt là những cây mai vàng, mai trắng, mai đào đang khoe hương, khoe sắc. Nhớ lắm cây mai trong vườn nhà, chắc là nó cũng nhớ mình như mình nhớ nó. Chắc hẵn chung quanh nơi ông bị giam, thành Yên Kinh, người ta cũng nô nức đón xuân, vui Tết. Trong thời gian này, không gian đó, làm sao mà nỗi nhớ gia đình, quê hương, đất nước không dội lên như sóng ngầm? Nó không ồn ào mà thật là da diết. Nó trộn lẫn với nỗi nhớ vườn quê và những cây mai quê nhà. Vậy là ý thơ được ghi lại. Ngôn ngữ bài thơ thật dung dị, không hề có điển cố văn học (như thói quen làm thơ của những nhà nho). Ý thơ cũng thật là mộc mạc, hết mực chân thành, như chính thịt da, máu huyết của mình. Năm cũ đã qua, ta đã bị giam giữ đến năm thứ hai rồi, không biết chừng nào mới có thể về quê được, cây mai cũ trồng trong vườn nhà chắc đã già lắm rồi. Cội mai già còn là biểu tượng của bậc thân sinh. Thật ra, cây mai cũng chỉ là hình tượng ước lệ, nhưng trong bài thơ này, nó là tâm của cơn bão lòng của tác giả. Bao nhiêu nỗi nhớ nhung, cả những uất nghẹn trong lòng chất chứa dồn cả vào cây mai. Cây mai già rồi, đồng nghĩa với thời gian không chờ đợi ta nữa. Đọc các câu thơ sau đây trong bài thơ “Đi thuyền giữa sông Cam Châu gặp ngày giỗ mẹ”, tôi biết Lê Cảnh Tuân là người nặng tình cảm gia đình, một người dễ xúc động.  Ông viết:

Bát thiên lí lộ tha hương khách
Tứ thập ngũ niên vô mẫu thân
Tâm chiếc thủ thời cầm bất đắc
Lâm phong sái lệ bội thương thần

Dịch nghĩa:

Là khách tha hương ở xa tám ngàn dặm
Đã bốn mươi lăm năm nay không có mẹ
Tấm lòng đau đớn lúc này không gì ngăn giữ được
Trước làn gió rơi lệ mà tinh thần khổ não bội phần
(Hợp tuyển Thơ Văn Việt Nam)

Do vậy, khi viết bài thơ Nguyên Nhật, lòng ông buồn bã biết chừng nào…

Khi đọc những bài thơ viết trong tù ngục, có những bài hào khí ngất trời, coi cái chết tựa lông hồng, tôi rất khâm phục. Như chí khí của Phan Chu Trinh khi bị giặc Pháp bắt đày ra Côn Đảo:

Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi
Mưa nắng càng bền dạ sắt son
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể sự cỏn con !

(“Đập đá Côn Lôn”- Phan Châu Trinh)

Nhưng nói thật lòng mình, tôi chỉ thực sự xúc động với những bài thơ được làm ra trong tâm trạng buồn bã của người tù nhớ quê, nhớ vợ, nhớ con, nhớ nhà. Tình cảm của họ có thể yếu mềm, có thể nước mắt rơi trên trang giấy. Thường những người làm ra những bài thơ đó bị người đời cho là uỷ mị, là bạc nhược; coi khinh họ là nam nhân mà không có chí khí và gì gì nữa… Nhưng tôi lại luôn luôn thấy, chính họ mới là người thể hiện một cách tự nhiên nhất, đầy đủ nhất bản chất của một con người.

Năm 1406, nhà Minh mượn cớ “phù Trần diệt Hồ” sang xâm lược nước ta. Tháng 10 năm Đinh Hợi (1407), Lê Cảnh Tuân[2] gửi cho một bức thư cho người bạn cũ là Bùi Bá Kỳ, đang làm chức Tham nghị cho nhà Minh; đó chính là “Vạn ngôn thư” (bức thư muôn lời). Trong thư,  ông khuyên Bùi Bá Kỳ nên đòi nhà Minh giữ lời hứa lập lại nhà Trần[3]. Không may bức thư đó bị lọt vào tay giặc. Chúng lùng bắt ông, nhưng ông đã trốn thoát được. Năm 1411, quân Minh lập “Giao Châu học hiệu” tại Thăng Long, ông giả làm khách ra kinh đô, rồi xin vào dạy học tại đây với mục đích để vừa dò xét tình hình vừa có điều kiện để kết nạp sĩ phu nhằm cùng lo việc cứu nước. Chuyện bại lộ, ông bị quân Minh bắt giải về Tàu, giam ở ngục Yên Kinh. Theo truyền thuyết, trong thời gian ở đây, có lần giám ngục đưa ông lên gặp vua nhà Minh, Minh Thành Tổ hỏi ông:

– Ngươi khuyên Bá Kỳ làm phản là cớ sao?

Ông ngang nhiên đáp:

– Người nước Nam mong nước Nam còn, hỏi mà làm gì?

Vua Minh nghe xong tức giận, trả ngay ông về ngục. Đến năm 1416, ông bị bệnh và mất trong ngục tại xứ người[4]. “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú đã trân trọng xếp ông vào trong nhóm bảy người bề tôi tiết nghĩa đời Trần.

Tôi đã đọc bản dịch Nguyên Nhật thành thơ Việt ngữ đăng trên Nam Phong tạp chí (năm 1927) của Đinh Văn Chấp:

Ngày Đầu Năm

Đất khách ngày bao trải
Trời xuân năm thứ hai
Kỳ về còn chưa định
Quê cũ đã chồi mai
[5]

Đọc đi đọc lại nhiều lần bản dịch thơ trên đây, tôi cảm thấy có gì đó không ổn. Bài thơ dịch chưa chuyển tải được đúng tâm tình của tác giả đã gởi gắm trong bài thơ. Bài dịch đã thoát ý , thậm chí còn có chỗ ngược lại “ý tại” của tác giả. Là hậu sinh, tôi không có ý mạo phạm tác giả dịch thơ từ gần 100 năm trước, nhưng rất chân tình, tôi xin được mượn bản dịch thơ tiếng Việt trên đây để đối chiếu với nguyên tác NGUYÊN NHẬT, đồng thời bày tỏ cảm nghĩ của mình khi đọc bài thơ này.

Câu thơ mở đầu: “Lữ quán khách nhưng tại” (khách còn ở lữ quán) đã xác định rõ về hành tung, vị trí của tác giả, là vẫn còn đang nguyên vị “tại” “lữ quán”. Vị khách này không thể nào xê dịch đi đâu được nữa, đơn giản chỉ vì “khách” đang bị quản thúc “tại tù”. Lê Cảnh Tuân đang bị giam tại một nhà giam của giặc tại Kim Lăng. Ở đây, có lẽ tác giả mượn tên “lữ quán”, chỉ để bớt đi phần nào cảm giác nặng nề mà thôi. Vì vậy, tình cảnh này hoàn toàn không phải như là đang trong hành trình bình thường của người lữ khách “đất khách ngày bao trải”như lời thơ dịch.

Đọc câu thứ hai của bài thơ: “Khứ niên xuân phục lai” (Mùa xuân năm ngoái nay trở lại) làm ta nhớ đến câu thơ của Thôi Hộ (đời Đường) trong bài thơ bất hủ của ông “Đề Đô thành nam trang”: “Tích niên kim nhật thử môn trung” (ngày này, năm ấy, tại cửa này), một sự bắt cầu bằng thời gian, không gian cụ thể, để rồi dẫn đến cảm giác mất mát đau đớn nằm ở hai câu thơ cuối: “Nhân diện bất tri hà xứ khứ / Đào hoa y cựu tiếu đông phong” (gương mặt người cũ bây giờ không biết ở đâu; hoa đào năm cũ còn cười với gió đông). Nguyễn Du có mượn ý này thành:“Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông” để viết trong Truyện Kiều. Câu thơ đau đáu trên đây của Lê Cảnh Tuân cũng có sự đồng hiện cả quá khứ (khứ niên) và hiện tại (phục lai) như câu thơ của Thôi Hộ. Trong tâm tưởng của tác giả, lúc này, thời gian đã chuyển dịch từ hiện tại thành quá khứ và từ quá khứ trở về hiện tại, nói lên được cảm giác buồn bã của sự tiếc nuối, mất mát trong một hoàn cảnh đã không còn hiện hữu nữa. Người dịch thơ đã dịch câu thơ trên ra tiếng Việt, thành: “Trời xuân năm thứ hai”. Câu thơ dịch hoàn toàn không có sắc thái tình cảm. Nó giống như một tiếng chuông đồng hồ điểm, một cách thông báo về thời gian giờ giấc, hoàn toàn vô cảm.

Câu thơ thứ ba: “Quy kì hà nhật thị” (Ngày về chưa biết chừng nào), thể hiện một sự bị động hoàn toàn của chủ thể. Bởi vì, cái ngày “quy kì” đó phải do giặc Minh quyết định, có trả tự do cho Lê Cảnh Tuân hay không. Trong khi đó, câu thơ dịch của Đinh Văn Chấp là: “Kỳ về còn chưa định”. Chữ “định” là động từ, chủ ngữ ẩn ở đây là chủ thể sáng tạo bài thơ. Như vậy, ý của câu thơ dịch đã trao quyền quyết định ngày trở về quê hương cho chính tác giả, một điều không thể nào có được. Câu thơ dịch giống như đang nói về một người lữ khách còn đang ngao du sơn thuỷ nên chưa thể định được ngày trở về nhà một cách cụ thể.

Câu thơ cuối: “Lão tận cố hương mai” (Cây mai ở quê cũ đã già hết). Câu thơ có sự xuất hiện ba từ liên tiếp nhau, thật đắc: “lão”, “tận” và “cố”, đã đẩy cảm giác đến giới hạn tột cùng của nó, khi đọc lên nghe đau buốt cả tâm can. Đó là sự thể hiện rõ nét về chiều của thời gian một đi không trở lại, là sự biến mất, mang theo cả tình cảm sâu nặng với gia đình, với quê hương, đất nước của tác giả. Sự hy vọng hầu như không còn nữa. Do vậy, tôi thấy khó hiểu về dụng ý của tác giả dịch thơ, khi ông lại dịch ra câu thơ cuối này, mà trong đó, ý, tình và nghĩa của nó khác hẵn với câu nguyên tác đến như vậy, thậm chí là ngược nghĩa. Từ chỗ cây mai ở quê cũ đã “lão tận” (già hết) trở thành “Quê cũ đã chồi mai”. Ai cũng biết trong ngữ cảnh của câu thơ dịch này, người đọc thơ dễ dàng nhận ra ẩn ý của sự “đã chồi mai” là đã nhen nhóm một niềm hy vọng mới. Tôi nghĩ, “Khứ niên xuân phục lai”, thời gian chỉ hơn một năm, về mặt sinh học, làm sao vườn mai ở quê có thể già nhanh, già hết như vậy được. Trong đầu tôi cứ mường tượng không nguôi hình ảnh, trong đêm giao thừa và cả ngày nguyên nhật, Lê Cảnh Tuân cứ ngồi (hoặc đứng) quay mặt về phương Nam, lòng đau như cắt, không còn chút tia hy vọng nào sớm thoát khỏi ngục tù của giặc để trở về quê hương. Vì vậy, trong tâm trạng thật sự thất vọng đó, câu“Lão tận cố hương mai” chính là hình ảnh vườn mai ở quê nhà mà ông tưởng tượng ra, đẩy nó ra xa hiện tại, rồi đặt nó vào thời điểm sau đó rất nhiều năm, khi thời gian đã làm cho vườn mai già cỗi hết rồi. Hoặc đó là kết quả của quy luật về thời gian tâm lí “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Tất cả đều từ một điểm xuất phát: tâm trạng không còn hi vọng gì nữa ở ngày trở về. Câu thơ dịch trên kia đã thay đổi hoàn toàn tâm trạng của tác giả từ tuyệt vọng trở nên hy vọng, từ bi quan trở thành lạc quan…

Trong bài thơ  “Tĩnh dạ tư” (Nỗi nhớ trong đêm vắng) nổi tiếng cả ngàn năm nay của Lí Bạch, nhà thơ đời Đường: “Cử đầu vọng minh nguyệt/ Đê đầu tư cố hương” (Ngẩng đầu nhìn trăng sáng/ Cúi đầu nhớ cố hương), tác giả đã bộc bạch nỗi niềm nhớ quê trong một từ rất rành mạch: “tư” (nhớ). Trong toàn bài thơ NGUYÊN NHẬT, Lê Cảnh Tuân không hề dùng một từ nào có nghĩa đen là nhớ nhung cả, nhưng khi đọc lên, “ý tại ngôn ngoại”, khiến ta cảm nhận được một sự nhớ nhung da diết, nỗi nhớ cố hương trong niềm tuyệt vọng của tác giả…

Xúc động trước hoàn cảnh đau đớn và nỗi niềm nhớ quê sâu nặng của Lê Cảnh Tuân, nên vào năm đọc được bài thơ này, tôi đã mạo muội dịch thơ bài Nguyên Nhật của ông và coi đây như một cảm nhận hòa điệu kính dâng lên hương hồn của tác giả.

Ngày Đầu Năm

Quán xa khách trọ còn đây
Mùa xuân năm cũ lại quay trở về
Còn ta nào biết ngày về
Đã già mai cũ vườn quê hết rồi…

Ngô Đình Miên
Nguồn: Tác giả gửi

Phụ chú

[1]  Hợp tuyển Thơ Văn Việt Nam (tâp II) – Văn học thế kỉ X –  thế kỉ XVII”. Nhà xuất bản Văn học- Hà Nội, 1976.

[2] Không biết Lê Cảnh Tuân sinh năm nào, không thấy sử sách nào nói rõ. Lê Cảnh Tuân có tên chữ là Tử Mưu, hiệu là Tỉnh Trai, người làng Mộ Trạch, huyện Đường An, phủ Thanh Hóa. Lê Cảnh Tuân đỗ Thái học sinh vào năm Canh thìn (1400), dưới triều Hồ (Theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nguyễn Quang Thắng và Nguyễn Bá Thế. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992)

[3] Bức thư có đoạn: “Nhà Minh đã sắc phong cho ngài (tức Bùi Bá Kỳ) theo quân họ sang đánh, chờ bắt được nhà Hồ, chọn lập con cháu họ Trần, gia thêm tước để giúp nước. Thế mà nay chỉ thấy họ lập ty Bố chánh, phong ngài tước cao, còn nhà Trần thì chỉ cho người quét dọn miếu thờ. Vậy nếu ngài có thể lại tâu lên, xét lời nói của các quan lại, kỳ lại bày tỏ việc con cháu họ Trần chưa tuyệt, để họ tuyên chiếu khác sắc phong cho họ Trần. Đấy là thượng sách. Không thể thì ngài xin thôi chức, chỉ xin làm viên quan coi miếu nhà Trần, đấy là trung sách. Còn nếu ngài nhận chức quan cao, ăn lộc nhiều, thì là hạ sách vậy. Như ngài theo thượng sách, thì tôi xin làm các vị nhân sâm, cam thảo, chỉ xác, trần bì sung vào giỏ thuốc để cho ngài dùng. Theo trung sách thì tôi xin bưng khay chén đi lại trong miếu cũng để ngài sai bảo. Còn nếu theo hạ sách thì tôi sẽ đi cày ruộng nơi tịch mịch, nhàn hạ, để cho trọn những năm sống thừa mà thôi”.

[4] Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”

[5] Bản dịch thơ này được in trong  “Hợp tuyển Thơ Văn Việt Nam” (tâp II) – Văn học thế kỉ X –  thế kỉ XVII”. Nhà xuất bản Văn học- Hà Nội, 1976.

Đã đóng bình luận.