Đội quân Mông Cổ

Posted: 17/01/2012 in Phạm Khắc Trung, Tùy Bút / Tản Văn / Ký Sự

Phạm Khắc Trung

Hơn nửa năm trước ngày đứt phim, tôi là Trưởng Ban Tổ Chức Bầu Cử Ban Đại Diện Sinh Viên trường Đại Học Cửu Long. Nguyễn Thanh Sơn và Lê Thị Mỹ là hai thành viên trong Ban Tổ Chức Bầu Cử. Thụ Ủy liên danh đắc cử là Nguyễn Quốc Hùng, một người bạn thân của tôi lúc bấy giờ.

Ra mắt Ban Đại Diện và giải thể Ban Tổ Chức Bầu Cử xong, tôi kéo Nguyễn Thanh Sơn và Nguyễn Hòa Bình cùng thực hiện tập san Xuân cho trường. Giáo Sư Phó Khoa Trưởng ngành Truyền Thông Đại Chúng muốn có mục Tử Vi trong tập san, tôi nhận phụ trách và biến thành diễn đàn “vui cười” do ba anh em chúng tôi thao túng, may mà được thày và sinh viên ưa chuộng mục Tử Vi giễu này.

Vừa làm xong tờ báo, Hùng lại đẩy tôi đứng ra tổ chức kết nghĩa với tiểu đoàn 11 Dù, đang nằm dưỡng quân tại phi trường Tân Sơn Nhất. Chuyện kết nghĩa không có gì phức tạp, việc tập dợt văn nghệ đã có Nguyễn Thanh Sơn, Nguyễn Hòa Bình, Đỗ Thị Phước Tín lo, tôi chỉ lo sắp xếp chương trình, ngày giờ và địa điểm kết nghĩa với Trung Úy Đạm, đại diện tiểu đoàn, bạn trai của cô thư ký trường tên Thu. Phương tiện di chuyển do chú Hiển đảm đương, hoạt náo viên do tôi và Giáo Sư phụ khảo Vương Đằng đảm trách. Mỗi lần tiếp xúc với Thu để nhắn tin, hay trao đổi điều chi với Đạm, tôi hay kéo liền tên hai người vào một, chẳng hạn như thay vì hỏi cho rõ ràng, “Thu ơi! Đạm đang ở đâu?” Tôi lại hỏi cho gọn, “Thu, Đạm đâu?” Viết thì được rồi, nhưng lúc nói đâu có phân biệt rõ dấu phẩy ở giữa hai tên, làm mặt Thu đỏ tận lên đến mang tai, nàng dậm chân thình thịch, quơ tay ngoe nguẩy, “ông Trung ăn nói thiếu nghiêm trang á”. Tôi vặn lại, “nói thế nào mới nghiêm trang? Vậy mai mốt in thiệp cưới, hai người có để tên kế bên nhau không nào?” Cô thư ký tên Hương ngồi bên nghe hóng từ đầu, thấy đồng nghiệp mình dở chiêu nũng nịu để ăn hiếp cậu sinh viên nên hơi bất bình, Hương quay qua Thu thắc mắc, “nãy giờ Hương có thấy ổng nói năng khiếm nhã gì đâu cà?” Thu ghé tai Hương giải thích, bấy giờ Hương mới ngoặt nghẹo đầu cười ngây ngất, “ông Trung này dễ sợ chi há!”

Khi miền Trung thất thủ, gia đình Hùng thất tán tứ tung không tin tức. Hùng lại nhờ tôi lo tìm cách giúp đỡ số sinh viên chiến nạn. Tôi thành lập Ủy Ban Cứu Trợ Sinh Viên Chiến Nạn Miền Trung thuộc Trường Đại Học Cửu Long, lôi Sơn và Bình vào phụ giúp. Nhà trường giao nguyên tầng 5 trên cùng cho sinh viên làm nơi tạm trú, cá nhân tôi lo liên lạc với Hội Hồng Thập Tự, lập hồ sơ xin tiền trợ cấp cứu trợ cho những sinh viên này.

Tôi dông dài kể lể công việc đã làm ra đây, hoàn toàn không có ý khoe khoang thành tích, tôi chỉ muốn nói rằng, bộ ba Trung – Sơn – Bình đã gắn bó với nhau một thời gian dài liên tục, từng đâu lưng đối cật làm việc trong nhiều môi trường và điều kiện khác nhau, nên vào thời điểm đó, đã có những cảm thông, chia sẻ và thương mến nhau như anh em ruột thịt.

Quê ngoại Sơn ở Vĩnh Long, nhưng nhà cửa gia đình Sơn ở ngay trên mặt tiền đường Phan Đình Phùng, gần ngã tư Lê Văn Duyệt.

Bình dân Cần Thơ, lên Saigon trọ học nhà bà con, ở lầu trên tiệm may thời trang phụ nữ trên đường Phan Đình Phùng, đối diện xế xế nhà Sơn.

Tôi, Bắc Kỳ di cư nhà ở dưới Hóc Môn, lúc này không còn ở trọ trên Saigon, mà lang thang sáng đi tối về bằng chiếc xe Honda Dame xốc xếch.

Tôi sinh ra ngay giữa cái khúc quanh quan trọng của giòng lịch sử, khi chiến tranh đã tạm ngưng trên quê hương thân yêu. Trong khi chính quyền miền Bắc lo chỉnh trang quân đội cho mục tiêu xâm lược miền Nam để thực hiện cái mộng bá quyền Cộng Sản, thì chính quyền miền Nam chăm lo xây dựng một thể chế Cộng Hòa, cuộc sống gọi là tạm thời yên ổn, duy những người di cư như gia đình tôi là mang nhiều xáo trộn trước cuộc sống mới, tình hoài hương lúc nào cũng canh cánh bên lòng, họ nhớ từ những gốc nhãn, những bụi tre; nhớ từ mồ mả ông bà cho chí con đường làng, ngôi đình làng, cái giếng làng, những sinh hoạt hội hè đình đám của làng… Lòng bâng khuâng khôn tả, nghĩ thương cho kẻ ra đi, xót cho người còn kẹt lại… Tôi là đứa may mắn nhất trong đám anh chị em chúng tôi, tôi được ôm ấp nâng niu, truyền hết từ tay này qua tay khác, hết bà rồi đến cha, qua cha lại đến mẹ, sau mẹ là các cô các chú láng giềng. Tôi ngủ quên trong câu ca dao, tôi thức giấc giữa những câu chuyện cảm hoài, tôi giỡn đùa bên những câu phong dao tục ngữ, tôi say đắm trong những câu chuyện cổ tích, tôi ngẩn ngơ giữa tiếng hát câu hò của trai gái đối đáp chọc ghẹo nhau trong thôn xóm…

Nghe miết đâm thuộc, những lúc rảnh rỗi bên tách café, tôi say mê kể cho Sơn Bình nghe nhiều chuyện thần kỳ về trai tân gái lịch Hà Nội mà tôi nghe được, thao thao như mình là người trong cuộc không bằng. Nhờ có chút duyên kể chuyện, nhất là tính hấp dẫn của câu chuyện, tôi như ông thánh sống, hốt hồn hai con chiên mộ đạo Sơn Bình.

Không biết tôi trở thành thần tượng của Sơn từ lúc nào, mỗi khi tôi nói một câu Sơn thấy hay, hoặc tôi làm một điều gì Sơn thích, Sơn lại tán dương tôi rằng, “dường như anh Trung không phải người phàm!” Nghe thế, Bình lại cười hắc hắc chêm vào, “ổng là yêu tinh chứ người gì!” Sơn lại còn thiết tha ao ước, “phải chi anh Trung chưa có bồ sẽ cưới chị Sơn, mình thành anh em rể thì sướng biết mấy!” Chị Sơn bằng tuổi tôi, không đẹp nhưng dễ thương, giỏi dang, ngoan hiền, chịu khó… ai cưới được người vợ như cô phải kể là có phước nhiều đời. Tôi là thằng lãng tử không biết sợ đất sợ trời, nhưng lại chung tình số dzách, đã có bồ rồi không dở thói bắt cá hai tay. Nhiều lần Sơn chăm bẳm nhìn tôi sỗ sàng thổ lộ, “Sơn mà là gái quyết cưới cho được anh Trung”, lần nào tôi cũng cười tươi giáng cho Sơn một đòn chí tử, “lấy mày thà tao lấy Mỹ Đen sướng hơn”, thế là anh em chúng tôi lại có dịp ôn tập một trận cười vui nhộn. Phải biết rằng thời đó, đầu óc người mình còn chật hẹp, mang nhiều kỳ thị lắm chứ chưa được phóng túng như bây giờ, ngay cả cô gái ăn sương rủi có con lai cũng bị xã hội rẻ khinh, coi như điều nhục nhã gia phong, chứ nói gì đến chuyện lai đen lại càng xỉ nhục. Chuyện đàn ông con trai lấy vợ Mỹ Đen hầu như chưa có bao giờ.

Người ta bảo, “thương ai thương cả đường đi lối về”, Bình và Sơn nghe tôi kể chuyện đâm mê gái Bắc. Cả hai quay sang ngắm nghía hai cô Bắc Kỳ khác lớp cùng trường. Rảnh lúc nào cu cậu lại dạo đàn, cùng nghêu ngao ca bài “cô em Bắc Kỳ nho nhỏ”, niềm riêng thích thú xiết bao!

Ngày Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích qua Mỹ cầu viện đợt 2 trở về, bẩy tám giờ tối chúng tôi vẫn còn chầu chực dưới sân trường đợi thày về mở cuộc họp báo về tình hình chiến sự và tường trình về kết quả chuyến đi cầu viện của thày. Thày vẫn chủ quan cho rằng tình hình chưa đến nỗi, Mỹ sẽ không bỏ miền Nam, và quân ta vẫn thừa sức đẩy lui những cuộc tấn công quy mô của địch từ các ngả vô Saigon… Đêm ấy tôi và Bình ngủ lại nhà Sơn, ba anh em bàn chuyện quá khuya mới ngủ nên hôm sau dậy trễ, và đến xế trưa tôi mới ghé xuống trường. Vừa thấy mặt tôi, Hùng đến nắm vai tôi, vừa lôi ra ngoài vừa chửi đổng, “Mẹ! Chắc tiêu rồi mày ạ! Ông bà Bích bỏ của chạy lấy người, hồi khuya dắt theo con bác Tài bỏ nước đi rồi còn đâu!” Bọn sinh viên bu cứng quanh tôi, mạnh đứa nào đứa nấy chửi bới om xòm cho nư giận… Chúng kháo nhau rằng gia đình ông bà Bích đi chuyến bay cuối cùng (chuyến thứ 5?) của dòng họ. Nếu tôi nhớ không lầm, hôm đó là ngày 28/04/75???

Sáng hôm sau tôi đi thẳng lên Hội Hồng Thập Tự xem tiền bạc cứu trợ của sinh viên thế nào. Đến nơi chẳng gặp một ai. Trên đường về trường, đường phố vắng tanh, tôi định tắp vào nhà Sơn rủ hắn xuống trường một thể. Đi ngang Chợ Đũi thấy thày Tôn Thất Trung Nghĩa và thày Tạ Ký còn ngồi ở đó, tôi tắp vô ngồi với thày một chập rồi phóng xe thẳng về nhà.

Nhà tôi có cái hầm trú ẩn hình chữ Z rất kiên cố do bố tôi xây từ sau trận Mậu Thân. Mỗi khi động tịnh giao tranh, hai gia đình thân của bố tôi dời sang trú náu. Tôi về nhà đã thấy hai gia đình thân đến trú tự lúc nào, đàn bà con nít nằm ngồi la liệt trong phòng có cửa thông xuống hầm. Bố tôi và hai ông bạn ngồi châu đầu nghe ngóng tin tức từ cái radio vặn nhỏ ở phòng bên. Chào mấy ông xong, tôi xuống bếp nhúm lửa pha cho mấy ông một ấm trà. Lúc mang trà vào, một ông hỏi tôi chiếu lệ, “cháu thấy tình hình thế nào?” Tôi kể cho các ông nghe chuyện Giáo Sư dạy tôi đi qua Mỹ cầu xin viện trợ lần thứ hai trở về thế nào, rồi lại cấp tốc đem gia đình rời bỏ Việt Nam nội trong đêm đó ra sao… Ba ông già ôm mặt khóc thút thít như những đứa bé bị đòn oan, tôi thương các ông quá, các ông đã từng bỏ chạy cộng sản một lần rồi, tôi lui ra leo lên chiếc võng nằm đưa đẩy. Từ đó cho đến lúc Dương Văn Minh kêu gọi quân dân cán chính buông súng đầu hàng, thỉnh thoảng có nghe vài tràng súng nhỏ, chả có dấu hiệu gì về việc giao tranh lớn xảy ra. Tôi vẫn nằm ì trên võng từ hôm trước, cả ba gia đình chưa ai phải xuống dưới hầm trú ẩn lần nào.

Nghe Duong Văn Minh tuyên bố xong, tôi nhờ người em cắt giùm mái tóc. Tắm rửa xong vào khoảng gần 2 giờ, tôi chạy qua nhà lối xóm rủ rê thằng bạn học cũ, hai đứa cột miếng vải trắng vào kiến chiếu hậu xe rồi chạy thẳng lên trường tôi. Trên đường Quốc Lộ số 1, lính tráng tháo bỏ quân trang quân dụng, quần áo, giầy vớ, nón sắt, nón vải… vất bỏ ngổn ngang dọc đường. Vừa chạy xe hai đứa tôi vừa xụt xịt khóc, cảnh tượng tang thương làm chúng tôi xúc động não lòng, vậy mà cũng có lắm kẻ vô tâm, lợi dụng lúc tranh tối tranh sáng kéo nhau vô trại lính hôi khối của…

Tới nơi cổng trường khóa chặt, trên đầu cổng, chỗ hàng kẽm gai giăng mắc, tôi thấy treo vất vưởng một tấm vải lớn màu xanh kẻ chữ trắng “Khu Phi Quân Sự” gọn gàng. Đứng gọi một hồi thì Dũng ra mở cổng cho tôi vô. Dũng gọi với lên lầu, oang oang báo tin tôi đến, lũ sinh viên chiến nạn nhào xuống ôm chầm lấy tôi, xụt xùi khóc kể như đã lâu ngày không gặp, “Võ Vinh Anh bị bắn mấy phát thương thế rất nguy nan!”

Sáng hôm sau tôi gặp Huỳnh Hữu Đức ghé trường. Đức mặc bộ đồ biệt động thành, chân đi dép râu làm bằng vỏ xe, cổ quấn khăn rằn, hông đeo lủng lẳng cây K54 xệ xệ, ngực dắt vài ba trái lựu đạn, miệng tươi cười toe toét của kẻ chiến thắng trở về. Gặp tôi, Đức niềm nở bắt tay líu lo mời thuốc. Dường như Đức là kẻ duy nhất nằm vùng ở trường tôi. Độ nửa giờ sau thì Sơn chở Bình tới. Hai đứa lấm lét kéo tôi ra ngoài nói nhỏ, “chết rồi anh Trung ơi! Hồi xưa Sơn cú đầu ăn hiếp nó, không biết bây giờ nó có nhớ để trả thù không?”

Rồi lệnh trên đài phát thanh kêu gọi sinh viên về trường trình diện. Bạn bè lần lượt kéo đến trường, gặp lại nhau mừng mừng tủi tủi. Nhắm chừng khoảng 60% sinh viên ra trình diện, 40% kia, hoặc đã bỏ học về quê, hoặc đã bỏ xứ ra đi biền biệt… Việc ghi danh đã có Nguyễn Quốc Hùng (Chủ Tịch Ban Đại Diện) lo, mỗi sáng chúng tôi đến ghi tên thôi chứ chưa có sinh hoạt gì, cập nhật tin tức xong là kéo nhau qua quán café trước trường chuyện trò đấu láo, nhiều khi quá trưa mới giải tán ra về, câu chuyện lung tung từ chỗ cán ngố dở hơi, đến việc người đi ai còn ai mất…

Sáng đó chúng tôi đang ngồi đầy trong quán thì Bình bước vào, mặt nhớn nha nhớn nhác Bình gào thật lớn, “bộ đội cái kìa bay ơi!” Chẳng ai bảo ai, cả quán nhào ra cửa ngó, vợ chồng con cái bà chủ quán cũng chen lấn ló đầu qua quầy nước đá dòm ra. Từ xa, ba cô bộ đội tung tăng nói cười bước tới. Ba cô giống nhau như đúc từ một khuôn ra. Cũng cùng khổ người thâm thấp dư dả bề ngang, cùng đội nón cối đồng màu với bộ đồ lính trận xanh xẫm lá cây rừng, cùng đi dép lốp râu nội hóa, cùng thắt bím bỏ dài sau lưng ngang cỡ lưng quần, cùng oang oang há hốc miệng vừa đi vừa nói nói cười cười ngạo nghễ vô tư… Cả quán đông đảo người thế mà im phăng phắc, dễ thường nghe cả nhịp tim đập của từng người. Bất chợt Bình cất cao giọng cười khả ố, “Hahaha! Người Hà Nội của anh Trung thanh lịch quá xá chừng!” Cả quán đổ mắt dồn vào mặt tôi soi mói, Sơn không buông tha, hắn ghé sát mặt tôi rít lời cay độc, “Sơn mà còn ca bài cô em Bắc Kỳ nữa cho Sơn chết liền!” Tiếng Bình lại ré lên như tiếng sói tru đêm, át hẳn tiếng cười của mọi người trong quán, “đúng là đội quân Mông Cổ!” Rồi Bình há miệng trợn mắt quay qua quay lại nhìn quanh, mắt láo liên ngó hết từng người một, ngạc nhiên vì bao nhiêu ánh mắt đang ngơ ngác nhìn mình thắc mắc, ngửa hai tay ra làm dáng phân bua, Bình nheo mắt trề môi giải thích, “Ừa! Thì chỉ thấy mông chứ không thấy cổ!”

Tháng 12, 2011

Phạm Khắc Trung
Nguồn: Tác giả gửi

Đã đóng bình luận.