Munshi Premchand
Quốc Ấn chuyển ngữ
Dưới đây là một truyện của nhà văn hào Premchand (1880-1936) là một đại văn hào của nước Ấn Độ mới, sau Tagore. Ông là giáo sư trường Sư phạm và xin từ chức để tham gia phong trào bất hợp tác của Gandhi đề xướng. Là một nhà ái quốc và văn sĩ, ông Premchand đã viết vô số truyện ngắn và tiểu thuyết. Truyện dưới đây ông tả một cảnh khổ của một người trong đẳng cấp “cùng đinh”, một đẳng cấp bị khinh rẻ nhất ở Ấn Độ. (Quốc Ấn)
Cao cả thay tình mẫu tử, tất cả những cái khác đều dối trá và trống rỗng, chỉ có tình mẫu tử là bất diệt.
Từ ba hôm nay, chị Sử Kha không ăn được một miếng, không uống được một giọt nước. Trên ổ rơm trước mặt chị, thằng bé ốm tong của chị nằm xuôi cò, rên ri rỉ. Từ ba hôm nay, chị không chớp mắt được. Khi thì chị ôm nó lên, khi thì chị ru nó ngủ. Thằng bé đang vui chơi, bỗng chốc lại như thế. Chị không biết tại sao. Trong trường hợp ấy, sự đói khát đối với người mẹ không nghĩa lý gì. Chị thử uống một ngụm nước, song không làm sao nuốt cho trôi.
Nỗi sầu vô biên xâm chiếm người đàn bà khổ sở ấy. Trong một năm, chị đã gởi dưới giòng sông Găng hai đứa con rồi. Và năm rồi, chồng chị cũng đã từ giã cõi trần. Hiện nay, nguồn sống độc nhất của chị, sự an ủi độc nhất của chị là thằng bé ấy. Khổ! Hay là trời muốn nó xa chị nữa? Nghĩ thế, nước mắt chị tuôn xuống ròng ròng.
Đứa con chưa bao giờ chị rời nó một phút, chị đem nó theo khi đi cắt cỏ, và khi chị ra chợ bán cỏ thì nó cũng ở trên tay chị. Chị đã làm cho nó một cái liềm và cái thúng nhỏ xinh xinh. Thằng Di Văn cũng cắt cỏ như chị, và kiêu hãnh bảo:
– Nếu má làm cho tôi một cái liềm lớn, tôi cắt cho má được vô số cỏ. Rồi má cứ việc ngồi ở ngạch cửa và con đi bán cỏ thay má.
Chị hỏi:
– Rồi con đem về cho má những gì?
Thằng Di Văn hứa sẽ mua đem về cho chị những cái áo thật tốt. Còn về phần nó, nó tính mua thật nhiều kẹo.
Mỗi khi chị nhớ tới những câu chuyện ngây thơ của con thì lòng chị thắt lại.
Ai thấy đứa bé cũng bảo rằng “ông bà” nào ám nó. Ai ám nó? Chị thù oán gì với ai trên đời này! À! Nếu chị biết được tên của người vô danh nào ám nó, có lẽ chị đã bồng nó đến quì dưới chân người, có lẽ người ấy cũng cảm động mà tha thứ, Nhưng biết hỏi ai cho ra người ấy bây giờ. Hỏi ai? Hỡi trời! Làm thế nào bây giờ?
Đêm hầu tàn, trăm mối ngổn ngang trong lòng chị Sử Kha.
Bây giờ phải đi cầu khẩn vị thần nào đây? Trong khi chị đang triền miên nghĩ ngợi, bỗng chị giật mình. Chị thấy chồng chị hiện về trước giường con nằm, đưa tay lên trán thằng bé, nói rằng:
– Đừng khóc nữa Sử Kha. Thằng Di Văn sẽ mạnh lại. Ngày mai mình phải đi cúng phật Tha Kha, phải đến đó mà cầu khẩn.
Nói xong, chồng chị biến mất.
Chị Sử Kha vẫn mở to mắt: phải, chính người chồng thân mến của chị đã hiện về, không còn nghi ngờ gì nữa.
“Ảnh vẫn nhớ tới mình”. Và lòng chị tràn ngập hy vọng. Chị ôm đứa bé vào lòng chị rồi ngước mắt lên trời lầm thầm khấn khứa:
– Lạy trời, nếu con tôi lành mạnh, tôi sẽ cúng ngài. Xin trời phù hộ cho người đàn bà góa bụa khổ sở này.
Vừa lúc ấy, thằng Di Văn mở mắt ra. Nó đòi uống nước. Chị chạy ngay đi rót một tách nước đem cho nó. Khi uống xong, nó hỏi chị:
– Má ơi, sáng chưa má?
– Còn tối con ạ. Con thấy trong mình làm sao con?
– Con bớt rồi má à.
– À! Con tôi nói đúng. Trời phù hộ con mau mạnh rồi đó. Con muốn ăn gì không?
– Muốn. Má cho con ăn kẹo đi.
– Không có kẹo con à, mà kẹo ăn không nên đâu. Má lấy cơm cho con một dĩa nghe.
– Không đâu. Cho con một chút xíu kẹo thôi, đi má.
Không nỡ từ chối, chị lấy kẹo trong keo cho nó một miếng; khi chị sắp đậy keo lại thì có ai hỏi chị ở trước. Thừa lúc vắng mẹ, thằng Di Văn nắm hai nắm kẹo, ngốn ngấu.
***
Hôm ấy, thằng coi bộ khá. Nó ăn được một ít cơm và đi một cách yếu ớt ra tận cửa. Nó nhìn các bạn nó chơi giỡn một cách khoái, vì nó chưa đi chơi với chúng được. Chị Sử Kha tin rằng con đã mạnh. Chị định vài hôm nữa, khi kiếm được chút đỉnh tiền, sẽ đến chùa cúng phật Tha Kha cho rồi.
Những ngày Đông sắp hết. Chị Sử Kha lo dọn dẹp nhà cửa, lau chùi đồ đạc và nấu nướng. Nhưng một chiều nọ, bỗng thằng Di Văn lại ấm mình lại làm cho chị lo sợ bối rối vô cùng, phải chăng tại chị trễ nải đi cúng Phật mà con chị bệnh trở lại?
Đêm đến. Chị dỗ con ngủ rồi bắt đầu nghĩ đến lễ cúng. Hoa thì chị có thể tìm được ở vườn đằng kia. Còn phải nấu chè để cúng chùa và mời vài người trong làng. Lễ cúng kiến ít ra cũng tốn đến một đồng A na. Chị Sử Kha tìm cùng làng cũng chẳng biết ai đâu để vay mượn. Chị thất vọng vô cùng. Không ai có thể cho chị mượn đến bốn xu. Chót hết, chị đành cổi chiếc vòng bạc đem đi cầm, mua một mớ bánh rồi chạy về. Xong xuôi đâu đó, tay ẵm con, tay bưng mâm lễ vật, chị đi về phía đền.
Trong đền, tiếng chuông nổi lên. Độ mười lăm người đứng lên cầu nguyện. Ngay lúc đó, chị Sử Kha tới. Chị đứng lại trước cửa đền. Ông thủ tạ hỏi chị:
– Chị này muốn cái gì?
Chị Sử Kha bước lên bực gạch và thưa:
– Bạch ngài, con có vái Phật. Con đến cúng đức Phật.
Ông Thủ tạ ăn ở tại đền. Mặc dầu trời lạnh, gió thổi lạnh thấu xương, không bao giờ ông quên đọc kinh niệm Phật. Bởi thế, nếu người ta thấy ở tay và chân ông những lớp hờm đóng dầy thì việc ấy không phải lỗi tại ông.
Ông hỏi:
– Sao? Chị muốn vô à! Nhưng đã hết buổi cúng rồi. Đừng có lôi thôi nữa!
Một tín đồ bảo:
– Bộ nó muốn vô đây phá đền sao chớ!
Chị Sử Kha năn nỉ:
– Con đến lạy Phật. xin ngài xem đây, tôi đem đủ lễ vật.
Người tín đồ nói:
– Chị điên à! Chị muốn lạy Phật!
Chị Sử Kha chưa có dịp nào đi tới đền, ngạc nhiên:
– Bạch ngài, đấng từ bi là chúa tể của trời đất, tôi lạy ngài thì có sao đâu!
– À! Có phải là bọn “cùng đinh” không?
– Nhưng bọn “cùng đinh” cũng là trời sanh ra! Trời, Phật của các bọn “cùng đinh” cũng là Trời, Phật của các ngài! Tôi đến cầu nguyện cho thằng bé này, tội nghiệp. Thưa ngài…
Trong đền, một ông to lớn vừa đọc kinh xong, quát lên:
– Đi ra, con mẹ kia, không, tao đập chết bây giờ! Mầy muốn lôi thôi gì đó hử? Liệng lễ vật của nó đi. Tụi hạ cấp bây mà lởn vởn đến đây thì chúng tao đều bị xuống địa ngục hết.
Một người khác thêm vào:
– Nếu Phật mà ăn đồ của bây thì không còn Trời, Phật nào nữa…!
Chị Sử Kha thấy lạnh cả người. Chị run bần bật lên trong khi mọi người bàn tán về việc xảy ra. Thằng bé con chị hoảng sợ ôm sát vào người chị. Nhưng chị không muốn đi, hai chân của chị dính chặt xuống đất. Chị càng muốn vào cho được để lạy Phật! “Lấy quyền gì mà mấy người này cản mình, Phật là của riêng của họ à!” Nhưng chị vẫn sợ sệt, không dám bước tới vì chị sợ họ đập mâm lễ vật của chị. Chị vẫn đứng đó, nghĩ ngợi. Bỗng nhiên, chị có một ý kiến. Chị bèn đi ra một gốc cây cách xa nơi đó, chờ bọn tín đồ về.
Bọn này, sau khi cúng kiến, còn ở lại đọc kinh rất lâu. Ông Thủ tạ đốt lò lửa lên để nấu đồ ăn. Ông ngồi xếp bằng trước một lò lửa, đọc kinh. Thỉnh thoảng ông dừng lại giải nghĩa. Đến 10 giờ đêm, chị Sử Kha vẫn còn chờ ở gốc cây.
Chót hết, bọn tín đồ lần lượt ra về, chỉ còn một mình ông Thủ tạ. Chị Sử Kha mới đến sân đền, nơi ông Thủ tạ đang ngắm nồi đồ ăn ngon lành của ông.
Nghe tiếng động, ông quay cổ lại. Thấy chị, ông giận dữ:
– Cũng chị này nữa. Chưa đi phứt cho rồi à?
Chị Sử Kha đặt mâm lễ vật xuống đất, chắp tay khẩn khoản:
– Bạch ngài, tôi khổ sở lắm. Thằng nhỏ này làm cho tôi lo lắng lắm, tội nghiệp. Ba bữa rồi, nó nằm vùi. Xin ngài mở lòng từ bi…
Nước mắt chị rơi xuống. Nhà tu hành cũng từ bi, song không thể để cho một người trong giai cấp “cùng đinh” đến gần Phật được. Người ta hay được, sẽ ra sao! Phật sẽ phạt cách nào! Ông bảo:
– Trở về nhà chị mà cầu Trời, khẩn Phật đi, rồi con chị sẽ mạnh. Tôi cho chị cành dương liễu này để cho nó ăn, và đây là nước cam lồ, để rửa mặt cho nó.
– Nhưng, bạch ngài có thể nào cho tôi vào lạy Phật được không? Tôi nghèo khổ lắm, phải vay mượn mới sắm được lễ vật này. Hôm qua tôi nằm mộng thấy thần linh mách bảo phải đến cúng Phật thì con tôi mới mạnh được. Tôi mau mau đến đây ngay. Tôi có tiền đây, xin ngài cứ lấy tất cả, chỉ cho tôi vào lạy Phật một phút thôi.
Những lời năn nỉ ấy làm cho nhà tu hành cũng bối rối. Nhưng sợ Phật hành phạt mạnh hơn, ông quát:
– Đi ra, con mẹ điên. Ở đâu Trời Phật cũng chứng cho lòng thành của mình được cả. Này, tôi có luyện thứ bùa này, nó quí lắm nhưng tôi chỉ để lại cho chị một ru bi thôi. Đeo cho con chị thì ngày mai nó đi chơi được.
– Nhưng xin ngài cho tôi cúng Phật…
– Không được, đừng có nhày. Không ai lại cho bọn chị vào, lỡ ra cả làng bị tai ách thì sao! Này, lấy cái bùa này đi rồi nhờ trời, con chị lành mạnh trong đêm nay. Thằng nhỏ này tôi biết nó mà. Nó đến đây chơi mỗi ngày, nhưng ba bữa nay tôi không thấy. Nó ngộ nghĩnh lắm.
– Bạch ngài, bùa làm sao đeo?
– Tôi sẽ bao vải cho chị, trồng vào cổ là được.
Chị Sử Kha cầm chiếc vòng được hai ru bi. Chị đã đổi một đồng lấy tiền lễ. Còn lại đồng nguyên, chị trao cho ông Thủ tạ để được cái bùa.
***
Trở về nhà, chị đeo bùa vào cổ con. Nhưng đêm càng khuya, thằng nhỏ càng nóng thêm. Đến ba giờ sáng thì chân và tay của nó bắt đầu lạnh. Chị Sử Kha bảo thầm: Khổ quá! Mình sợ sệt vô lý thành ra không vào lạy Phật được. Nếu mình cứ vào thì bất quá họ đánh đuổi mình là cùng, nhưng mình cũng lạy được rồi. Nếu mình đã được lạy, được đặt thằng nhỏ dưới chân Phật thì ngài cũng động lòng. Phật là đấng từ bi, phò hộ kẻ khốn khổ, ngài cũng phò hộ ta.
Càng suy nghĩ, chị Sử Kha càng nóng nảy. Ừ, không thế chần chờ, phải đến lạy Phật mới được. Chỉ còn có việc ấy là sự nương dựa của người đàn bà yếu đuối này.
Nếu đến, cửa đã đóng thì chị sẽ bẻ khóa. Phật có phải là một món hàng đâu mà người ta mua được để giữ kín!
Hơn ba giờ tự lúc nào. Chị Sử Kha quấn con vào chăn ôm trên tay, tay kia bưng mâm, chị ra đi về phía đền.
Khi chị ra đến ngoài, những luồng gió từng hồi thổi lạnh thấu xương. Chân chị tê đi. Tối tăm bao trùm khắp nơi, chị còn phải đi ít lắm là bốn trăm thước nữa. Con đường mòn chìm đắm đuối, cây cối um tùm. Cách đó không bao xa là một cái hố và đàng kia những túp lều tranh. Một người thợ giặt đã chết đuối dưới hố này và những gian nhà ấy là nơi hội họp của ma quỷ. Bên trái là những cây um tùm. Đâu đấy đều có những tiếng vi vút, bóng tối gào lên. Bỗng nhiên một con lạc đà rú lên chát chúa.
Những khi khác thì dầu ai cho chị một triệu bạc chị cũng chẳng dám đi thế, nhưng lần này thì tình mẫu tử mạnh hơn, làm cho chị phải dằn sự sợ hãi: “Lạy trời, phù hộ con” chị vừa khấn vừa bước về phía đền.
Đến sân đền, chị mò mẫm tìm sợi giây xích cửa. Chiếc khóa vẫn ở đó. Ông Thủ tạ ngủ ở sau cánh cửa đóng kín ấy. Bóng tối vẫn bao trùm. Chị Sử Kha lượm một viên gạch dưới chân và bắt đầu đập vào chiếc khóa. Một sức mạnh vô hình giúp chị,và với vài cái đập như thế, chiếc khóa và viên gạch cũng vỡ tung ra rơi xuống thềm. Chị xô cửa bước vào đền thì ông Thủ tạ bật tung cửa chạy ra la:
– Ăn trộm! Ăn trộm!
Ông vừa la vừa chạy ra làng. Trong mùa lạnh nhiều người hay thức sớm. Nghe kêu, họ cầm đèn chạy ra hỏi:
– Đâu? Đâu? Trộm ở đâu?
– Cửa đền bị mở rồi. Tôi nghe tiếng sắt!
Dưới dàn điện, chị Sử Kha bước tới. Đứng trên thềm chị bảo:
– Không phải trộm, chính tôi. Tôi đến cúng Phật. Tôi chưa vào.
– Đồ chó! Ông Thủ tạ bảo nó đã làm dơ dáy đền rồi.
Tức thì nhiều người đàn ông bất bình chạy đến đánh đá chị Sử Kha. Một tay bồng con, chị Sử Kha đưa tay kia lên che thân. Một người to lớn đánh một thoi mạnh làm cho thằng bé rời ngay khỏi tay chị. Nhưng nó không kóc, không nói, cũng không rên rỉ gì cả. Chị muốn nâng đứa bé lên. Nhưng khi đến trước mặt nó thì chị thấy như một vũng nước lấp lánh. Chị thở mạnh rồi đứng lên. Chị không còn nước mắt nữa. Mặt chị đỏ lên vì tức giận. Chị nắm chặt hai bàn tay lại, nghiến răng bảo:
– Đồ giết người! Bây giết con tao rồi, sao bây không giết luôn tao đi! À! Rờ đến đền Phật là làm cho Phật nhơ nhuốc. Rờ đến đá là đá thành vàng chớ không phải vàng thành đá. Tao đã làm nhơ nhuốc Phật? Tại sao ngài sanh con tao ra làm gì? Thôi tao không trở lại nữa đâu. Giữ lấy Phật, khóa kín ngài lại, cho người canh gác ổng. Bây tàn ác lắm. Bây cũng có con, sao không thương một người mẹ? Đồ sát nhân! Đừng sợ gì cả. Tao không đến thưa cò bót đâu. Trời sẽ xử bây, tao sẽ đến kiện bây ở Trời!”.
Rồi chị lặng im. Tất cả đều cúi đầu xuống như những pho tượng. Cả làng đều hồi hộp… Chị Sử Kha nhìn họ, rồi nhìn con.
– Trời ơi! Con tôi!
Rõ ngã gục xuống. Chị đã chết, chết vì đứa con thân mến của chị.
Munshi Premchand
Quốc Ấn chuyển ngữ
Nguồn: Thẩm Tuyên gửi bài


















