Hoàng Quy
Anh còn có dịp về thăm quê nhà lần nữa hay không ?
Nắng chiều vẫn trôi bên sườn dốc núi Cà Tang. Những vạt nắng mùa xuân thấp thoáng trên những cánh rừng xanh biếc xa xăm. Thời gian như ngậm ngải tìm trầm biền biệt trong không gian vô tận. Con sông Thu Bồn chìm khuất trong bóng núi, nghìn năm còn ở lại bên bờ viễn mộng cỏ hoa.
Trưa hôm ấy, tôi đứng trên cầu Bà Đội. Cây cầu đã khác xưa. Những nà bắp dưới chân cầu đang trổ bông. Trong ngọn gió trưa còn thoảng mùi hoa cải đương xuân. Màu xanh của bắp, của nương dâu, vẫn như ở chốn nầy, phía bên ấy, sau những mảnh vườn xanh lá kia là nhà cô tôi. Ngôi nhà ba gian đầy ắp những tiếng cười, nguồn vui không dứt, tưởng chừng như…Thời gian không dừng lại và cuộc đời cứ trôi đi biền biệt. Rồi các anh không quay về ! Ngôi vườn xưa tan tác. Tôi hỏi ai bây giờ ?“Hỏi tên rằng biển dâu xanh“Thưa rằng ấy mộng ban đầu đã xa” (Bùi Giáng}Phải rồi, chỉ có biển dâu, bờ bắp xanh rì, núi non biên biếc. Hãy thắp ngọn ban đầu tìm chốn nguyên sơ.
Anh nhớ nguồn xưa, nhớ ngôi nhà ba gian dưới chân đồi bà Lẩm ? Anh nhớ con ngõ hẹp về nhà hai bên bờ rào thơm mùi hoa dủ dẻ…Và trước sân cây phượng đỏ thắm những mùa vui.Ở đâu cũng rứa, quê nhà như ri :“Tuồng huyển hoá đã bày ra đấy,“Kiếp phù sinh trông thấy mà đau “ ( Cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều) Chỉ có cái thuở ban đầu, ngàn năm sơ ngộ ấy, ghi dấu đầu dòng, bước chân rêu phong nguyên màu duyên nghiệp mà “ Sá chi suy thạnh việc đời / Thạnh suy như hạt sương rơi đầu cành”. (Thiền sư Vạn Hạnh). Sá chi, hạt sương tan đầu ngày, để mây buồn theo gió, nhớ mưa quay về biển nguồn lai láng mênh mông. Cái đau ở chỗ đầu nguồn, ban sơ thuý liểu, có ai nói hộ dùm cho cuộc phiêu bạt phong trần, lắm khi chua xót để tháng ngày qua như chiếc lá xuôi dòng.“Giòng sông đi cho nước nói ngàn ngày,“Rằng biển rộng không bến bờ em ạ “ (Bùi Giáng}
Anh Bùi Giáng ơi, dù biển có mênh mông vô biên xứ, vẫn còn lưu dấu giọt sương rơi, giọt sương treo đầu ngỏ, nhớ nhau mà về:“Ta về rủ áo đười ươi“Trút quần phong nhuỵ cho người phụ ta” (BG)Dù người phụ ta hay ta phụ người, hãy “Trút quần phong nhuỵ cho tà huy bay” (BG).
Mai kia, Anh Sáu Giáng, anh Sáu Lẩm có về thăm lại chốn nầy “cầu Bà Đội vẫn màu xanh biếc/ Người chăn dê thấp thoáng cuối nương dâu/ Nhìn không ra , bóng ai sau triền bắp/ Cuối nà dâu, trưa nắng dưới chân cầu.” Khúc tận dỉ vong tình” (Lý Bạch) Quên đi, quên cả ta, cả người, chẳng có, chẳng không. Có quên được không ? Hay nhớ chăng cái thuở tiền sinh Tiên Thiên lãng đãng quanh trời ảo hoá muôn thu xưa mà đau đáu bên lòng : “ Hỏi người, người ở quê đâu / Hỏi tôi , chẳng biết, biết tôi chốn nào “(BG).
Trong cái hiện tiền dàn trãi, mưa nắng bốn mùa, sương rơi lá đổ, cũng mỏi gối chồn chân, mộng trường du hí, thế mà đau cả một đời không nói hết chỗ nguyên sơ “Thân như bóng chớp chiều tà (thiền sư Vạn Hạnh). Cái lý uyên nguyên ấy có chừa ai đâu.. Không phải. “Thưa rằng tôi ở rất lâu quê nhà” ( BG).
Quê nhà ấy không phải Vỉnh Trinh Duy Xuyên, Trung Phước, Đại Bường, Cà Tang, Đèo Le cố xứ…Cái quê Tiên thiên phiêu bạt, ngộ xứ liễu trần kia ư ? Cũng chẳng phải bên dốc cầu Bà Đội, cuối ngọn Khe Le lùa dê đuổi bướm, nói hộ chuồn chuồn…”Ta còn để lại gì không / Kìa non đá lỡ, kìa sông cát bồi” (Vũ Hoàng Chương) Cái chốn, cái quê mù tăm bóng nhạn ấy, có phải nó ở chỗ dáo lai hà xứ khứ, mà có lần, đôi lần chợt nhớ giữa buổi tan hoang bên bờ cát bụi : Cầm tay, mắt đỏ cơ hồ / Bờ môi ấp úng hẹn hò nguyên xuân.
Cái màu nắng vàng trưa ấy, cái màu nguyên xuân ấp úng , muôn năm lãng vãng phía sau rừng, chìm sâu trong thức thứ tám, chủng tử giang hồ “Nhớ ơi màu nắng trưa vàng / Rừng nghiêng, mái biếc, ngày hoang vắng dài”(Tường Linh). Như trưa bửa ấy trên cầu Bà Đội, tôi nghe bước chân ai về trên xóm nhỏ : Con đường trả lại dấu chân / Nỗi vui thao thức đầy sân nắng vàng” (Tương Linh). Trưa ở lại trong nắng vàng, không phải ở coĩ nào xa xăm, không phải nắng trãi mình trên dòng sông Thu Bồn dưới chân cầu Nông Sơn tôi đang đi qua, đi qua từng bước, và nợ các em từng giọt nắng quê nhà. Không có cây cầu, làm chi có con đường về làng tôi xanh biếc! Cả làng tôi nợ các em ! Cả cái thung lủng mù sương nầy nợ mười tám em cát bụi mịt mù. Đêm rất sâu, sương rơi ngoài vườn. Trăng hạ tuần treo phía đầu hiên vắng lặng cõi nào…
“Ai biết mình tóc trắng
Vì yêu ngọn nến tàn
Rừng khuya bên bếp lạnh
Ngồi đợi gió sang canh”
Ôi, thiền sư Tuệ Sĩ ơi, Tôi đã ngồi như thế suôt mấy trăm năm. Cô đơn đến giọt máu cuối cùng, đến sương treo giữa trời khách địa tha hương luý tuý.
Ba trăm năm qua, làng tôi có một con đường duy nhất để đi về. Con đò ngang chòng chành như chiếc lá. Bây giờ, may thay, quê tôi có thêm con đường mà phải đi qua cây cầu Nông Sơn của Mười Tám Em vùi chôn trên đầu dòng sơ ngộ. Tôi nghiêng mình trước linh hồn các em, cho tôi nợ bước đi về, không khóc được.: “Ta về, chưa biết về đâu, / Nhịp cầu đã gảy, dòng sâu khó dò” (Tường linh).
Quê nhà như rứa. Cây cầu đã bắc qua sông, nối đôi bờ khổ luỵ. Đứng trên cầu Nông Sơn, nhìn dòng sông mùa xuân hiền hoà lửng lờ, núi non, bãi bờ như nỗi nhớ khôn nguôi. Tôi không biết hôm nay là hôm nào ? mà buồn đến thế ! “Tá vấn thử hà nhật”(Ly Bạch) Vâng, không nhớ hôm nay, hôm qua và chốn nào, chỉ thấy quê nhà như rứa :” Nỗi gần rất mực bao la,/ Nỗi xa vắng quá, từ xa xôi nào” (BG).
Nguyên Tiêu, tôi viết xong 108 bài kệ cho người. Trên cái thành quách hoang liêu ấy, tôi tìm ra cái chân tướng của bổn lai như bông lau trắng thấp thoáng phía lưng đèo : lưng đêò bông lau trắng,/Cái hạc bay về đâu. Bay về đâu bây giơ? Trời xanh mây trắng, non nước đồi nương một màu tương ngộ, im lim, tịch diệt giữa hư vô : “Đồi nương xuân vắng lặng,/ Trăm năm gió bạc đầu” (kệ 108 Cỗ Nhân Thiên) Gió thổi suốt trăm năm, cái hạc bay về bên trời huyền đồng cùng Tiên Thiên há xứ ? Như con sông xưa nhớ nước xa nguồn, tháng ba rồi mà trời đất cứ ngu ngơ. Về không ? quê cũ vẫn chờ,/ Nhớ quê như rứa, mịt mờ như ri.
Hoàng Quy
Nguồn: Tác giả gửi


















