Phỏng vấn du ca Fa Thăng về lịch sử cá nhân và sinh họat du ca

Posted: 06/09/2013 in Bút Đàm / Phỏng Vấn, Trangđài Glassey-Trầnguyễn
Thẻ:

Trangđài Glassey-Trầnguyễn thực hiện & hiệu đính

minh_chien-nguyen_quyet_thang
Minh Chiến và Nguyễn Quyết Thắng

Lời Giới Thiệu: Trong bài phỏng vấn này, Trangđài kính mời quý độc giả gặp gỡ một khuôn mặt ‘trẻ mãi không già’ mang tên Fa Thăng, hay Du Ca Nguyễn Quyết Thắng. Ông ‘trẻ mãi không già’ vì bất cứ nơi nào ông đặt chân đến, ông đều mang theo những điệu nhạc trong sáng và lời ca đầy nhiệt huyết. Và ông đã làm việc này trong ngót 50 năm, mà vẫn không ngơi nghỉ. Đã vậy, ông còn mở rộng sinh hoạt sáng tác tại hải ngoại, để đáp ứng nhu cầu hát tiếng Việt của các thế hệ không thành thạo tiếng Việt. Trân trọng kính mời độc giả đi lại những chặng đường đời của Fa Thăng, song song với lịch sử Du Ca và lịch sử dân tộc.

Trangđài Glasssey-Trầnguyễn (TGT): Kính chào Chú Fa Thăng. Chân thành cám ơn Chú đã nhận lời cho Trangđài phỏng vấn Chú về lịch sử cá nhân và sinh họat Du Ca. Xin phép được bắt đầu với câu hỏi về hòan cảnh sinh trưởng của Chú. Thưa Chú, Chú sinh ra năm nào và ở đâu? Thời thơ ấu của Chú có những điểm nào đáng nhớ?

Nguyễn Quyết Thắng (NQT): Vâng, xin chào cô Trangđài. Tôi sinh năm 1949 tại Hà Nội, nhưng đến năm 1954 thì theo cha mẹ di cư vào miền Nam, cho nên những ký ức kỷ niệm thưở ấu thời nơi sinh ra không thể nhớ được ngoài những địa danh đã lưu lại một thời gian ngắn như Quảng Trị, Biên Hòa, Sài Gòn, và cuối cùng Banmethuột là nơi đã giữ chân tôi từ năm 1957 cho tới 1981, tôi nhận đó là quê hương thứ hai của tôi, bởi vì tất cả những kỷ niệm của thời mới lớn, một trời đầy hoa mỹ, tuổi của mơ ước, của tương lai tình yêu và lý tưởng, vì thế tôi yêu vùng đất cao nguyên này lắm, mặc dù mưa dầm rả ríc, cho dù gío bụi quanh năm, hoặc suối reo, hoa nở, tôi luôn cảm thấy hạnh phúc. Cho đến khi chiến tranh tìm đến khung trời này thì chung quanh chỉ thấy một sự tàn phá, đau thương và mất mát. Điều tôi không bao giờ quên được là ở đó tôi còn có mẹ già cùng mộ chí của cha, có các em và các cháu , cùng các bằng hữu văn nghệ đã một thời sinh hoạt chung trong đoàn Ấu Thiếu Nhi và Phong Trào Du Ca Việt Nam trước đây .

TGT: Thưa Chú, Chú có còn chút ấn tượng nào về cuộc di cư vào Nam không? Hay còn nhớ những câu chuyện kể lại trong gia đình về biến cố này theo kinh nghiệm của gia đình Chú?

NQT: Lúc đó tôi mới lên 5 tuổi, còn nhỏ quá chẳng biết gì, chỉ nhớ lờ mờ vào một sáng tinh mơ bố mẹ tôi đắt theo 3 đứa con, leo lên 1 chiếc xe GMC thì phải, rời Hà Nội sau lại chuyển qua xe lửa vào đến Sàigòn, trong tuổi này thì chẳng quan tâm, chẳng hề nhớ, và cũng chẳng biết là mình đi đâu và tại sao phải đi. Có lẽ bố mẹ tôi cũng đã giải thích hoặc đã kể lại nhưng đến giờ thì chẳng nhớ nữa, chắc chắn bố mẹ tôi không muốn cho con cái thấy cảnh chiến tranh, tuy nhiên sau này bố mẹ tôi thường nhắc nhớ về khung trời xa xôi nơi ra đời, và mong ước đất nước thôi chiến tranh, hết chia phôi sẽ lại được trở về nơi chôn nhau cắt rốn. Nhưng thời gian trôi quá nhanh, và cuộc chiến phân ly thì quá dài, lúc có thể trở về được, thì mọi khung cảnh và hoàn cảnh đã thay đổi, cha tôi đã gìa và qua đời tại Banmethuột, còn chúng tôi nay đã lưu lạc nơi xứ người.

TGT: Như Chú nói, Ban Mê Thuột là quê hương thứ hai của Chú, nhưng có lẽ là quê hương thật sự, vì Chú không biết nhiều về nơi chôn nhau cắt rốn là Hà Nội. Vậy tuổi thơ của Chú ở Ban Mê Thuột, từ lúc lên tám, đã diễn ra như thế nào? Tuy ở trong Nam, nhưng chắc nếp sống gia đình vẫn mang ảnh hưởng miền Bắc? Cảnh thiên nhiên ở vùng này có lẽ ảnh hưởng nhiều đến đời sống tình cảm tâm lý của một cậu bé đang lớn?

NQT: Cuối năm 1956 gia đình tôi từ Tuy Hoà chuyển lên Banmethuột, tôi học lớp tư trường tiểu học Nguyễn Công Trứ nơi có cây đa to giữa sân trường với chúng bạn dễ mến, điều làm tôi say mê nhất trong bậc tiểu học là vẽ , thấy vật gì trước mắt ngắm nghía xong là vẽ, vẽ truyền chân rồi đến chân dung, thầy Sơn dậy lớp nhất luôn cho tôi điểm cao về môn vẽ, tôi yêu qúi thầy lắm. Bố tôi xin cho tôi được vào sinh hoạt với Hướng Đạo, trong nghành sói con. Cũng nhờ những sinh hoạt lành mạnh trong Hướng Đạo mà tôi đã trở nên mạnh dạn tự tin hơn, biết trách nhiệm và biết yêu mến quê hương, mê từng con suối, thích từng bụi cây ngọn cỏ, tôi thích lửa trại, cảnh thiên nhiên hùng vĩ của núi rừng làm con người dễ thêu dệt những ước mơ và trừu tượng, và sẵn sàng làm tất cả những gì mà người ta gọi là công tác xã hội – là việc thiện … nhờ có Hướng đạo tôi được làm quen với con người và đất nước rõ hơn, tôi rất qúi mến Phong trào Hướng Đạo Việt Nam.

Bước vào ngưỡng cửa Trung học, tôi về sống với bác tôi ở Sài gòn, tôi đã bị ảnh hưởng âm nhạc lôi cuốn theo với những âm thanh của những bản nhạc nước ngoài do đám anh họ của tôi thường chơi nên tôi học lóm theo cách đánh đàn guitar luôn cả hát và đánh trống, rất nhanh… Rồi cũng đến một ngày, những bản nhạc ngoại quốc kia cũng nhạt phai trong tôi – lúc ấy mới 13 tuổi. Sự thèm muốn những ngôn từ của tiếng mẹ đẻ trong âm nhạc Việt Nam trỗi lên mãnh liệt, mỗi ngày đi bộ đến trường học phải đi ngang qua rất nhiều cửa tiệm bán nhạc, hoặc quầy xạp trên đường phố Sàigon nghe vẳng ra tiếng nhạc với đủ mọi giọng hát , tôi lục lọi tự tìm kiếm cho mình bản nhạc đắc ý để chơi, nhưng dường như chỉ thấy nhạc tình cảm của lứa đôi.

Năm 1963, trở về Banmê, tôi thành lập một ban nhạc riêng với các bạn cùng trường Kỹ Thuật Y-Jút BMT , các thầy giáo đa số còn trẻ tuổi rất thích và ủng hộ nhiệt tình, từ đó ban văn nghệ nhà trường có rất nhiều giọng hát tham gia, từ học sinh cho đến giáo sư thật vui nhộn và đáng nhớ …

Tôi tham gia sinh hoạt với Gia Đình Phật Tử tại đây. Những ngày hè của những năm sau đó, tôi đều dành thời giờ tham gia công tác hè của các học sinh, sinh viên tổ chức đi vào các làng xóm, quận lỵ chặt cây đan nứa, cùng nhau dựng lớp học, đào hố tiêu , vét mương, đào giếng, tôi không có sức để làm việc nặng nhọc như các bạn khác nhưng bù lại lúc nào tôi cũng có mặt cổ động bằng những bài ca sinh hoạt, trò chơi của Hướng Đạo và Phật Tử cho vui nhộn thêm phần hào hứng.

Vào một buổi tối 1965, tôi đã nghe được tiếng hát của Nguyễn Đức Quang phát ra từ chiếc máy radio với những bài ca tuổi trẻ sinh hoạt thanh niên thật đúng ý, và từ đó tôi đã tham gia vào Phong Trào Du Ca Việt Nam cho đến ngày hôm nay. Đó là những ngày tháng thần tiên nhất và đáng nhớ của tôi trong tuổi mới lớn, chưa vướng bận những ưu phiền của cơm áo, chưa vướng mắc đau thương của con người trong vận nước điêu linh.

TGT: Thưa Chú, thiên nhiên luôn là môi trường nuôi dưỡng tâm hồn nhân bản và sáng tạo tốt đẹp nhất cho con người. Có lẽ chính nhờ sự bồi thố từ thiên nhiên mà dòng nhạc của Chú rất trong sáng, theo như nhận xét của nhiều người. Hơn nữa, sinh hoạt hướng đạo cũng đưa thanh thiếu niên đến gần hơn với thiên nhiên. Chú đã có một tuổi thơ rất lý tưởng với Hướng Đạo, Gia Đình Phật Tử, và sau này, tuổi thanh niên với Du Ca. Đây là những nền tảng rất vững vàng để giúp Chú vào đời. Xin Chú kể thêm về những ngày đầu với Du Ca, và những sáng tác Du Ca đầu tiên của mình.

NQT: Tôi bị mê hoặc bởi những bài hát của Nguyễn Đức Quang, âm điệu bài hát thật lạ lùng và mới mẻ “chẳng giống ai ” không phải là lời tỏ tình cũng không phải lời an ủỉ hay kêu than, mà là một lời tuyền đạt , một bầy tỏ và phán quyết. Tôi có ý đi tìm cho ra những bản nhạc này, thì tình cờ có được những tài liệu này của Du Ca Viên Long An trao cho, tôi đã thành lập được một toán “Thanh Ca Tác Động” Banmêthuột vào ngày 25-12-1966, một năm sau đoàn chính thức đổi tên thành Đoàn Du Ca Lòng Mẹ Banmêthuột. Sau những buổi tập hát vào mỗi ngày chủ nhật, chúng tôi tham gia sinh hoạt với các đoàn thể bạn khác như Thanh Sinh Công, Gia đình Phật Tử, Hướng Đạo, và ngay trong các bệnh viện để ủy lạo thương binh. Với lòng non choẹt của học sinh lớp đệ lục bậc trung học, chúng tôi dắt nhau đến các trường từ tiểu học cho đến trung học, không chỗ nào không có mặt chúng tôi, mọi người có thể cùng hát theo chúng tôi với những lời bài hát ca ngợi quê hương, dân ca, thanh niên ca, và sinh hoạt trò chơi lành mạnh. Các bài hát được viết trên bảng hoặc trên giấy quay roneo, chúng tôi cũng đến hát cho đồng bào sống trong các Quận, Làng xã xa xôi nghe những bản dân ca quen thuộc hoặc vui đùa với các em nhỏ trong xóm, chỉ có khoảng trên chục du ca viên mà chúng tôi đã thực hiện được đủ mọi tiết mục, đơn ca, song ca, hợp ca, ảo thuật, kịch vui, múa hoạt cảnh v..v.. thật là hăng say và thích thú.

du_ca_long_me
Du Ca Lòng Mẹ trong một chuyến tình nguyện về huyện
làm công tác xã hội và văn nghệ.

Tháng 9 năm 1967, Tôi cùng 3 Du Ca Viên khác đại diện cho đoàn du ca Lòng Mẹ Banmethuột về Sài gòn tham dự đại hội du ca toàn quốc lần thứ nhất tại trường đại học văn khoa cũ trên đường Nguyễn Du, trong buổi thi sáng tác ca khúc tại chỗ này, tôi đã được các anh huynh trưởng chấm gỉai nhất bản nhạc “Máu Tim Này Cho Ai” đó là một khích lệ rất lớn cho tôi tiếp tục sáng tác những bản nhạc đầu tay như: Vắt Tay Lên Trán, Gọi Tên Đất Mẹ, Đứa Học Trò Trở Về v..v. tất cả đều được anh chị em trong Phong Trào Du ca hưởng ứng, đó là khởi đầu cho sự ham thích sáng tác nhạc khúc và sự đam mê vẽ chân dung đã trở thành thứ yếu.

TGT: Câu chuyện thật thú vị, thưa Chú. Là một người trẻ nhìn về qúa khứ của thế hệ cha mẹ với khỏang cách thời gian, cháu vẫn vừa ngưỡng mộ những giàu có về tinh thần của họ, vừa thương cảm với hòan cảnh chiến tranh mà họ phải đối diện. Thưa Chú, ở thời điểm nào thì Chú cảm nhận rõ rệt cái khốc liệt của chiến tranh? Và Du Ca có phải là cứu cánh, hy vọng cho Chú trong sự đối diện đó không? Vì cháu vẫn nghĩ, dòng nhạc Du Ca là ánh đuốc giữ cho thanh niên một sinh lộ giữa hoang tàn đổ nát.

NQT: Không biết có phải vì ảnh hưởng sống trong sinh hoạt tập thể, cộng đồng hay tại nếp sống trong một gia đình công chức bình thường, mà niềm mơ ước của tôi thật đơn giản mong sao khi ra đời sẽ được là một giáo sư chuyên chính, bên cạnh đó một sở thích kèm theo nhằm thỏa mãn niễm khoa khát về nghệ thuật là làm đạo diễn phim ảnh, tôi đã theo học những phân khoa này tại Sàigòn. Nhưng sự yên bình và niềm mơ ước chưa thực hiện xong, thì gia đình cùng bằng hữu tại Banmêthuột bị tan cửa nát nhà bởi Tết Mậu Thân 1968, tôi đã trở về, cùng hứng chịu đau thương chung của mọi người, đây là thời gian chiến tranh đã làm thay đổi cuộc sống và niềm mơ ước của của người thanh niên trẻ như tôi lúc bấy giờ, vài tháng sau đó, tôi cùng chúng bạn gia nhập quân đội trong chiến dịch tổng động viên 68, mồi người một binh chủng tản mạn khắp nơi, người đi thì nhiều , nhưng trở về qủa ít ỏi. Cuộc chiến thì qúa dài, nhưng cuộc đời binh nghiệp của tôi thì qúa ngắn, nó đã chấm dứt sau một cuộc đụng độ với quân du kích. Với đôi nạng gỗ trong Hội Đồng Y Khoa của QLVNCH, tôi đã nhận giấy thương binh giải ngũ năm 1970. Cuộc chiến vẫn tiếp tục, và sự tang thương mất mát của người dân mỗi ngày một dâng cao, tương lai tuổi trẻ VN thật mù mịt, cuộc sống thật khó khăn, niềm mơ ước tan biến, sự hy vọng chông chênh, và niềm tin rạn nứt.

du_ca_nguyen_quyet_thang
Nguyễn Quyết Thắng, Trưởng Du Ca Lòng Mẹ Banmêthuột

Nói trở lại vấn đề văn nghệ thì Du Ca chẳng bao giờ rời khỏi tôi, bởi vì trong đó tôi có khá nhiền bạn thân và các đàn em qúi mến, chúng tôi vẫn còn có nhau, ít nhất cũng còn một hòai bão, với bàn tay trắng, một khối óc non nớt của học sinh, dắt dìu nhau đi ủy lạo nơi tiền đồn xa xôi, mang tình thương đến mọi người nơi quân-dân y viện, nơi làng xóm hẻo lánh, nơi trường học và các hội đoàn bạn. Phong Trào Du Ca Việt Nam là một đoàn thể hoạt động về văn nghệ phục vụ cộng đồng, văn nghệ cộng đồng là hình thức văn nghệ trong đó cả người nghe lẫn người hát đều cộng tác với nhau. Loại văn nghệ này có mục đích tác động tinh thần và cảm hóa người nghe hơn là ru ngủ, để tất cả cùng ý thức và phục vụ cho cộng đồng, xứ sở. Du Ca diễn đạt tư tưởng của mình qua âm nhạc, thơ văn và hoạt cảnh , đến và chia xẻ với mọi người với những điều tai nghe mắt thấy, trực diện với cuộc sống, nhận diện cuộc chiến cùng nỗi đau của người dân, hay niềm hoan lạc của cuộc đời. Điều đơn giản nhất để làm tôi qúi mến Du Ca là đã đáp ứng cho tôi một hướng đi bằng âm nhạc không phải vì thương mại, không phải than mưa khóc gió, mà là chỗ chúng tôi tìm lại được với nhau qua sự đồng cảm, thân thương chân tình, nói với nhau với một ngôn ngữ mộc mạc chân thật thoát ra từ trái tim nhịp thở, bằng âm thanh đơn gỉan sẵn có trong không gian. Sự chân và thiện luôn là ánh đuốc sưởi ấm lòng người và luôn dấn con người đến một vùng hạnh phúc bền bỉ, ngay từ trong hoang tàn đi ra, tôi nghĩ là như thế.

TGT: Những giấc mơ của tuổi trẻ luôn rất đẹp và mạnh mẽ. Chú vẽ đẹp, thích điện ảnh, nhưng cuối cùng chỉ theo đuổi âm nhạc – âu cũng có những nguyên nhân tất yếu của hoàn cảnh. Thưa Chú, kinh nghiệm của Chú trong biến cố Mậu Thân 1968 và cuộc tổng động viên đưa cháu đến gần với quá khứ chiến tranh hơn. Chú đã bị thương ra sao, và làm cách nào Chú đã không cần mang nạng gỗ sau này?

NQT: Ha… ha… lại phải trở về với vết thương mà tôi tự nhủ lòng sẽ không nhắc đến nữa, bởi vì nhắc đến nó là khơi lại một sự đau buồn không phải chỉ cho riêng cá nhân mình mà cho cả một số đồng đội cùng chịu chung số phận, những người trẻ tuổi đầy mộng mơ thật dễ mến mà đã phải sớm hy sinh, tôi cũng không hiểu với sự may mắn như thế nào mà tôi được sống sót trở về. Chuyện thật dài, thôi thì chỉ xin nói vắn tắt sơ qua là chúng tôi bị lọt ổ phục kích trong khi hành quân, đồng đội tử nạn còn tôi bị tàn phế bởi đạn B40 vào năm 1970, chân bị thương tật và tai bị điếc một bên. Mãi đến năm 1981, khi qua được bến bờ tự do, nhờ phẫu thuật của bệnh viện Hòa Lan tôi đã được chữa trị lành lặn. Thế nhé?

TGT: Cháu chân thành xin lỗi đã khơi lại nỗi đau mà Chú muốn quên đi. Nhưng chính nhờ câu trả lời của Chú mà chúng ta thấy được những đau đớn của quá khứ, và những cơ may của hiện tại. Cháu mừng cho sự bình phục của Chú, và cám ơn Hoà Lan đã cho phong trào Du Ca một Fa Thăng lành lặn để sáng tác sung mãn hơn. Thưa Chú, tiếp tục với cuộc phỏng vấn, Chú đã sống qua ngày 30 tháng Tư như thế nào? Thời gian sau 1975 ở Việt Nam, Chú đã sinh sống ra sao? Và làm cách nào Chú đến được Hoà Lan sáu năm sau đó?

NQT: Tôi làm việc trong YMCA, là một cơ sở của hội “Thanh Niên Cơ Đốc Phụng Sự Xã Hội ” thế giới (The Young Men’s Christian Association), là một phụ tá Giám Đốc đặc trách sinh hoạt YMCA xã Bình Hòa- Lái Thiêu, thành lập thư viện, tổ chức sinh hoạt thập thể lành mạnh cho thanh thiếu niên, nghiên cứu phương cách giáo dục cho các giáo viên lớp tiểu học, tổ chức những khóa chăn nuôi, khóa may vá cho đồng bào, và cứu trợ nạn nhân chiến cuộc từ những vùng xa xôi hẻo lánh chạy về.

Trước tháng 4-1975, Vợ, con, mẹ và các em tôi cùng các bà con thân thuộc cũng đều bị kẹt lại trong thị xã Banmethuột, tôi không hề nhận được một tin tức gì cho biết sống hay chết, nhà cửa ra sao ? còn hay đã mất, ngày đêm lòng như lửa đốt, tôi ngược xuôi như chong chóng, nơi nào có bóng dáng người từ BMT chạy loạn thoát về là tôi có mặt , hầu mong hy vọng tìm được thân nhân hoặc ít ra cũng có được tin tức nào chăng ? Vì thế, tôi xin tạm thời ngưng làm tại Lái Thiếu để chuyển theo nhóm lưu động của YMCA về Vũng Tàu làm việc cứu trợ tại đây.

Hằng ngày tôi đều có mặt tại bến cảng nơi các tầu chiến hải quân cặp bến, hoặc trong rừng Chí Linh thuộc Bộ Xây Dựng Nông Thôn để cấp phát gạo, thực phẩm, lương khô, đường sữa cho dân tị nạn chạy về, không một người nào tôi không để mắt tới, hy vọng sẽ nhận ra người thân quen nào đó từ BMT chạy về được đây để hỏi thăm, nhưng thật vô vọng. Cho đến ngày 30-04-1975 miền Nam thất thủ, tôi đã đi xe đò từ Vũng Tầu về được đến quê nhà, may mắn thay gia đình tôi vẫn còn được toàn vẹn.

Sau khi học tập cải tạo xong , tôi trở thành một công nhân bất đắc dĩ , cũng nhờ lúc lên trung học tôi đã học một thời gian trong trường Trung Học Kỹ Thuật Cao Thắng tại Sàigòn và Banmethuột, mặc dù chọn chuyên môn ban Toán, nhưng cũng biết khái quát các nghành chuyên môn khác, nay đem ra áp dụng , tôi trở thành “chuyên viên” làm đồ gỗ, bàn ghế trường học rồi đến tủ giường bàn ghế đồ “móp” đến xây dựng nhà cửa, một thời gian sau đổi thành nghề thợ điện, điện nhà đến điện công nghiệp, tiếp đến sửa chữa Radio TV, tối phụ vợ may đồ công nghiệp tại tư gia,và chăm sóc nuôi …2 con heo sau nhà. Mặc dù làm đủ mọi nghề và đủ mọi giờ, để tránh bị đi Kinh Tế Mới, tiền nhận được cũng chỉ đủ để uống càphê cùng bằng hữu mà thôi, trong thời gian này tôi tự ví mình là “Con Ngợm.”

Ngày tháng dậm dựt trôi qua, tôi có thêm được 1 đứa con trai, tổng cộng 1 gái, 2 trai, tên là Cung My, Cung La và Cung Đô. Mặc dù không còn thời giờ và cơ hội sinh hoạt văn nghệ như trước, nhưng văn nghệ giống như cái nghiệp theo bám tôi không dứt, tôi vẫn hát một mình, hát với vợ và có dịp vẫn hát với bằng hữu du ca cũ, hát để thấy mình còn sống, vẫn còn được nâng niu những kỷ niệm và ước mơ mầu hồng. Cuộc sống đôi lúc thật chật vật, nhưng đó không phải là trở ngại chính, mà là sự yên bình- lặng câm của cuộc sống luôn bị khuấy động và canh chừng, do những kẻ muốn lập công lấy điểm của Tổ – Khối đâm thù kết oán, thừa cơ dựng chuyện đổ lên đầu những kẻ cô thế những vu oan tội lỗi, trước mặt tôi họ tự xưng là bậc cô chú láng giềng luôn tìm cách giúp đỡ cho gia đình tôi, nhưng sau lưng thì tôi luôn là con thí của ván bài, họ ghi danh tôi trong diện đi kinh tế mới và bắt tôi phải xung phong, và huy động thanh niên đến ” giúp ” tôi dỡ nhà. Vì tương lai của các con tôi, đã đến lúc tôi phải bảo vệ cho mình, tôi đã nghĩ đến cách thoát thân, thoát ở đây là tránh xa con người luôn hãm hại chèn ép tôi, tôi muốn trốn về Sàigòn sống, nơi còn có thân nhân và bằng hữu quen biết, đã giúp đỡ tạo cơ hội cho tôi vượt biên. Sau 3 lần vượt biển, cuối cùng tôi mới may mắn được tầu Nedloy Dejima của Hòa Lan cứu vớt ngoài biển đông vào tháng 5 -1981 và tôi quyết định lưu lại vùng đất này cho tới nay.

TGT: Cháu được ở Việt Nam 19 năm (1975-1994), nên hiểu những nhục nhằn mà Chú kể ra. Cháu nói ‘được,’ là vì những kinh nghiệm kinh hòang đó, tuy không ai muốn có, nhưng có trãi qua thì mới hiểu phần nào cái điêu linh của dân tộc và quê hương sau 1975. Chú ơi, ngày rời quê hương trong lần vượt biển thứ ba, Chú có ngậm ngùi không? Chuyến đi đã diễn ra như thế nào, thưa Chú?

NQT: Không biết cháu có vượt biển hay không. Tựu chung thì nó đều như nhau, nhưng hoàn cảnh và tâm tình của mỗi người đều khác nhau, nói đến vượt biển thì người ta có thể nói đến cả ngày vẫn chưa hết, bởi vì đó là một biến cố quan trọng trong cuộc đời, nó đã thay đổi cuộc sống của mình, nhưng thực ra mình đã tự quyết định số phận của mình trong niềm hy vọng thật mãnh liệt trong hạnh phúc mơ hồ. Ở trong một hoàn cảnh đường cùng của cuộc sống ngừơi ta đặt một niềm hy vọng tuyệt đối vào cơ may, vào một đấng linh thiêng luôn cứu vớt giúp đỡ người hoạn nạn, cô thê. Và cũng trong một thời thế nhiễu nhưng của xã hội tồi tệ cũng nẩy sinh những kẻ chuyên lợi dụng vào niềm tin của kẻ khôn cùng để mưu cầu lợi riêng, vì thế tôi đã bị lừa trong chuyến vượt biển lần đầu tiên.

Chuyến thứ hai cũng bất thành bởi cái máy bơm nước không làm việc sau một đêm mắc cạn ở cồn cát ngoài cửa biển, cuối cùng cũng phải quay về, mọi khó khăn vất vả, mọi hy vọng và thất vọng đều đến với tôi trong đợt này, và cuối cùng chuyến thứ ba tiếp diễn tôi chẳng có gì để đem theo, kể cả một niềm vui hay nỗi buồn. Tôi thản nhiên như mọi ngày, chẳng lo lắng rằng sẽ bị bắt, và cũng chẳng hy vọng sẽ thành công, chuyện gì đến sẽ phải đến, mình đã tự định đoạn chọn lựa số mạng từ nhũng lần trước rồi, qúa mệt mỏi về những dự tính mưu toan mà vẫn chưa thành, sinh mạng của mình tự coi sao qúa nhẹ, sống chết đều có số không ai mà biết trước, nhưng tự hỏi tại sao mình lại đem sinh mạng của mình ra làm một cuộc đánh đổi ăn thua, không đắn đo tiếc nuối? May mắn thay chỉ sau 2 ngày 3 đêm lênh đênh nơi hải phận quốc tế, chúng tôi đã được chiếc tầu buôn Nedloyd Dejima của nước Hòa Lan cứu vớt đem về trại tỵ nạn ở Singapore, 3 tháng sau tôi có mặt ở đất nước Hòa Lan và lập một cuộc sống mới nơi xứ người, tôi học được cái gía trị về quyền làm người, tôi phục hồi được giá trị trong tôi, sinh mạng con người không còn rẻ như bèo nữa. Thương thay cho bao người trong đó có bằng hữu và thân nhân của tôi cũng đã chìm sâu trong lòng biển cả.

TGT: Thưa Chú, ai đã từng sống ở Việt Nam, đã từng khổ nhục với gia đình và đồng bào, thì cũng sẽ không bao giờ an lòng khi nghĩ về sự bế tắt của đất nước từ mấy chục năm nay. “Thương thay cho bao người…” Cháu muốn nhắc lại lời của Chú, để hỏi về tác phẩm mới nhất của Chú, “Tuyển tập nhạc Tình Yêu, Quê Hương, và Thân Phận” được Nhật báo Người Việt hỗ trợ xuất bản năm 2012. Thưa Chú, đây có phải là tập nhạc đầu tiên chú xuất bản tại hải ngoại không? Cháu thấy đa số các tác phẩm được sáng tác vào thập niên 1970, tuy vẫn có nhiều bài từ các thập niên sau, mãi cho đến thập niên đầu của thế kỷ 21. Chú ‘dành ưu tiên’ cho những tác phẩm ‘classic’ của mình, hay vì đề tài của tuyển tập mà những bài sáng tác sau này còn phải đợi đến tuyển tập sau, thưa Chú? Tình Yêu ở đây, không chỉ là tình yêu lãng mạn, mà bao trùm tình yêu nhân loại, tình yêu quê hương, đồng bào, phải không Chú?

NQT: Đúng đấy thưa cô Trang Đài, Tình Yêu ở đây có nghĩa có nghĩa thật đơn giản là tình yêu của con người sẵn có khi sinh ra. Tuyển tập nhạc có tựa đề Tình Yêu-Quê Hương-và Thân Phận đều được gạch nối, trong đó chứa đựng những bản nhạc nói lên tình yêu của con người, ca tụng về quê hương và ấp ủ thân phận của con người Việt Nam (tôi) trong từng giai đoạn, từng hoàn cảnh bi ai hay hoan ca. Tuyển tập nhạc gồm một số bản nhạc được các bằng hữu tuyển chọn và thực hiện, vì thế nó có đủ những bài cũ mới chen lẫn, là một món qùa bất ngờ các bạn dành tặng cho tôi nhân dịp năm ngoái 2012 tôi đã trở về lại Cali sau một thời gian thật dài không gặp , để dự lễ tưởng niệm ngày giỗ huynh trưởng Nguyễn Đức Quang mất 1 năm. Sau này khi nhận được sách, hỏi dò mãi mới biết được, người cung ứng tài chánh và ấn loát là chị Bích Hạnh và chị Hoàng Vĩnh để in tại toà báo Người Việt. Đó là một kỷ niệm thật qúi nói lên tình bằng hữu thân thương trao tặng cho tôi, nhân đây tôi cũng xin được gởi một lời cám ơn đến các bạn hữu và chị Bích Hạnh, Hoàng Vĩnh.

Từ ngày qua hải ngoại tôi đã có xuất bản tập nhạc “Nguyễn Quyết Thắng” gồm 17 ca khúc do nhà xuất bản Quê Hương năm 1984 tại Santa Clara, Tập nhạc “Ngày Rày Năm Xưa” do Cơ Sở Văn Nghệ Con Người in năm 1998 tại Hòa Lan, tái bản tập” Banmê Và Cung Mi,” sau đó ra CD và Cassette ” Hát Từ Tim-Hát Bằng Hơi Thở”- ” Những Tối Hoa Xưa, ” 2 CD cuối cùng chỉ phát hành trong vòng thân hữu là ” Nụ Cười Sen Ngát ” và “Hát Giữa Vầng Trăng ” gồm những tác phẩm viết về Phật Giáo. Hiện tại tôi đang cố gắng tập trung viết một số bản nhạc có tính cách sinh hoạt cộng đồng, thật ngắn gọn để mọi người có thể hát theo, dành cho các thanh thiếu niên Việt Nam sinh trưởng nơi xứ người không sành sõi tiếng mẹ đẻ, vì đây cũng là một nhu cầu rất cần thiết mà chúng ta đang thiếu thốn.

TGT: Vậy là lời nài xin khẩn thiết của cháu sau khi dự Họp Mặt Du Ca 2013 vài tháng trước (như đã ghi trong bài tuỳ bút được đăng ở các báo) đã được Chú đoái đến! Cháu sẽ cách riêng đón đợi những ca khúc – mà cháu đã nhanh nhẩu đặt tên là “Du Ca Nhí” – dành cho thanh niên Việt hải ngoại do Chú sáng tác. Thưa Chú, tình thân Du Ca là một cái gì đó rất dễ nhận diện, có thể ‘sờ’ được và ‘thấy’ được dễ dàng, như chồng cháu đã nhận xét trong lần đầu đến với Du Ca. Tình thân ấy đã nuôi dưỡng phong trào qua bao thập niên. Riêng về cá nhân Chú, tình thân ấy đã tạo môi trường và trợ duyên cho Chú sáng tác. Chú có thể nói thêm một cách cụ thể về điều này không?

NQT: Việc sáng tác, phải nói là do sự thôi thúc của bản thân đôi khi chợt nghĩ ra một đề tài hay thấy một hoạt cảnh nào đó rung động tâm hồn khiến phải ghi lại và mình đã chọn âm nhạc thì nói bằng âm thanh thế thôi, và động cơ nuôi nấng tinh thần hứng thú sáng tác phải kẻ đến đoàn thể và bằng hữu. Sinh hoạt trong đoàn thể dễ nhận thấy những điều cần thiết phải nói, sự đòi hỏi của bản thân cũng như tập thể phải đáp ứng nguyện vọng cần thiết đang thiếu thốn, và bằng hữu luôn nhắc nhở mình phải viết, viết cho nhau và cho mọi người, ở đây tôi chỉ nói đến lãnh vực sở thích, tự nguyện, không phải viết để kiếm sống, nếu viết phải là một nghề nghiệp thì tôi chắc … đói dài dài. Tôi cũng cám ơn các bằng hữu cũng như phong trào Du Ca đã cho tôi nhựa sống trong đời, đa số những người bạn văn nghệ quen thân trong sinh hoạt chung, tôi đều có phổ 1 vài bài thơ tôi yêu thích để kỷ niệm sự gắn bó với nhau trong từng giai đoạn của cuộc đời, tôi chưa hề phổ nhạc một bài thơ nào của các vị đã nổi tiếng mà tôi không quen biết, đó không phải là nhu cầu cần thiết.

TGT: Có một bài hát cháu ‘để ý’ đặc biệt, vì dính líu đến quê chồng, là bài “Trên Đỉnh Zermatt.” Cháu đã được đến thăm phố Zermatt và chiêm ngưỡng Matterhorn vài lần. Cảm giác rất mạnh. Điều lý thú là Chú đứng ở đất lạ, nhìn một thiên tượng đẹp, mà vẫn nhớ đến quê nhà, và choàng lòng “ôm hết nhân loài,” để “lòng rộn rã hồi sinh.” Ca từ vừa bi, hùng, vừa quyến luyến, da diết. Chú có thể kể lại hoàn cảnh sáng tác của bài này không?

NQT: Ô ! thật là thú vị với câu hỏi này, tôi có một người quen sau khi nghe bản nhạc này xong thì mùa hè năm đó anh ta cũng đến thăm và lưu lại ở đây, lúc trở về anh ta gặp tôi hỏi: “Ở đó cũng chẳng có gì đặc biệt lắm ngoài ngọn núi Zermatt nằm đó, mà sao anh lại ca tụng thành nguyên một bản nhạc vậy ?”

Nay lại được cô hỏi lần nữa nhưng với một tâm ý hoàn toàn khác, thì thôi …tôi xin nói qua: Đây là một bản nhạc tôi viết lúc hừng sáng, sau một đêm dài thao thức trằn trọc với giấc ngủ, đành trở dậy leo lên đồi vắng ngồi chờ bình minh lên và tất cả đều là sự thật xẩy ra với tâm trạng cũng như ngoại cảnh, viết lại thật mộc mạc để kể chuyện lại cho nhà tôi nghe những gì tôi đã thấy đã suy nghĩ mà lúc đó nhà tôi đang còn say giấc điệp, đo cũng là một tâm sự trong một ngày đến thăm nơi đây:

“Đứng lên thâu ngắn đêm dài, Thấy lòng bao la trăm nỗi, Thấy em say giấc mộng dài, Bình minh lặng lẽ tàn phai !” Dĩ nhiên ở một nơi chốn hùng vĩ trầm lặng và vắng vẻ như thế khiến những kỷ niệm dễ quay về, mình tìm lại mình và bắt gặp được những cái thiếu xót, dại khờ mà giá bây giờ có thể quay về được với qúa khứ thì sẽ làm đúng ý nghĩa hơn: “Ngồi bên nhau chờ trăng lên, Đàn vang ca hừng đôi má, Tuổi xanh ơi quay gót lại một lần, Để ta ươm lại ước mơ, Để ta say chút mong chờ…” Và có lẽ tôi sống trên cao nguyên Banmê khá lâu, tuổi thanh niên đầy nhiệt huyết và cuộc sống toàn mầu hồng, cho nên bắt gặp những hình ảnh thiên nhiên quen thuộc dễ làm mình cảm xúc quay trở lại quê xưa, dẫu biết rằng quê hương ta không có được những giây phút yên bình để chiêm ngưỡng thiên nhiên, một chút ghen tị với cái đẹp hùng vỹ của xứ người, thảnh thơi nơi đầy mà lòng xót xa thương nhớ quê hương dài lâu chiến tranh tàn phá.

TGT: Cháu muốn dành câu hỏi cuối để hỏi về một người rất quan trọng trong đời Chú – cả đời sống cá nhân lẫn đời sống nghệ thuật. Người bạn đường – trong tất cả mọi nghĩa của từ này – đã chung vai với Chú suốt mấy chục năm nay, Cô Minh Chiến, đã có vai trò như thế nào trong dòng nhạc Nguyễn Quyết Thắng, thưa Chú?

NQT: Năm 1966 tôi thành lập toán Thanh Ca Tác Động tại Banmê, (sau đổi tên thành Du Ca Việt Nam) kết nạp được một số Du Ca Viên trong đó Minh Chiến mới 14 tuổi, còn tôi 17 tuổi. Mọi người vui vầy sinh hoạt với nhau như tình anh em trong một hội đoàn, tôi yêu thích Du Ca như thế nào thì mọi người như thế đấy, Chiến cũng vậy. Tập hát, thâu băng, trình diễn, dậy nhạc, công tác ủy lạo giúp đỡ người dân hoạn nạn v..v.. lúc nào cũng có nhau và qúi mến nhau. Cho đến một ngày Tết Mậu Thân đem đến nỗi đau buồn mất mát cho người dân nơi, đây trong đó cũng có gia đình của Chiến. Mọi người đều chú ý an ủi, giúp đỡ Chiến đặc biệt hơn, tôi cũng thế. Và kể từ đó tình yêu nẩy nở và mỗi ngày một đậm nét hơn, đến năm 1970 chúng tôi chính thức làm lễ cưới.

minh_chien
Minh Chiến, Du ca viên Lòng Mẹ

Tôi có cái may mắn là Minh Chiến cũng cùng một sở thích với tôi về âm nhạc, sẵn qúi mến tôi là một huynh trưởng hướng dẫn đoàn, cho nên lúc nào Chiến cũng nhắc nhở tôi phải sáng tác, phải tập hát, phải tham gia sinh hoạt, phải … phải. Và lúc nào cũng muốn được cùng tôi rong ruổi sinh hoạt đây đó. Niềm vui của tôi là mỗi lần viết xong một bản nhạc, thì đã có người thưởng thức ngay, hay dở cũng đều có một tràng pháo tay cho tôi lên tinh thần, tinh thần đó vẫn lôi kéo chúng tôi suốt cả cuộc đời, niềm hạnh phúc lớn nhất đối với tôi là cho đến nay chúng tôi vẫn luôn hiện hữu là một Du Ca Viên của Du Ca Lòng Mẹ nói riêng và của Phong Trào Du Ca nói chung, cũng nhờ đoàn thể này mà chúng tôi gặp nhau, dìu nhau qua mọi tai ương của cuộc chiến, nhiễu nhương của cuộc đời, vẫn còn hát, còn kể cho nhau nghe, cho con cháu và cho bằng hữu nghe, còn gì hơn. Phải không Trang Đài? Xin cám ơn tất cả.

TGT: Xin chân thành cám ơn Du Ca Nguyễn Quyết Thắng – Fa Thăng – đã cho Trangđài cơ hội phỏng vấn. Kính chúc Cô Chú Chiến-Thắng mãi hạnh phúc và vui ca bên nhau.

Trangđài Glassey-Trầnguyễn
Nguồn: Tác giả gửi

Đã đóng bình luận.