Lụy đò

Posted: 07/11/2013 in Hồ Đình Nghiêm, Tùy Bút / Tản Văn / Ký Sự

Hồ Đình Nghiêm

hoang_xuan_son-ho_dinh_nghiem

Cái đập vào mắt tôi trước tiên là tấm bảng đỏ Stop mà ai đã bôi đen để xịt sơn lem nhem bên dưới chữ Arret. Phía sau, thương hiệu gắn vào gạch đá ở trên cao có chú thích năm: 1835. Ông nội tôi chắc chưa chào đời? Xưa mút thẳm xa. Cung cấm triều Nguyễn e đã rêu xanh mấy lớp, đền đài tịch liêu gãy đổ chốn ấy. Sao chốn này vẫn thọ? Quá xá quà xa…

Stop, dừng lại, đôi khi không chỉ thoáng phút giây như luật lệ giao thông qui định. Có đôi người dừng lại để rồi nán ở dài lâu với cuộc chơi, chẳng cưỡng chống. Năm 1991 nhà thơ Hoàng Xuân Sơn đã dắt tôi ngơ ngáo tới địa chỉ ấy, chẳng có một màn phỏng vấn nào cả và từ một tay tơ lơ mơ tôi được nhận vào làm việc trong căn nhà rường cột đang đến hồi xiêu vẹo. Một nơi in ấn thượng vàng hạ cám, từ những hoá đơn mỏng tang cho chí một cuốn niên giám điện thoại dày cộm với máy móc thô lậu. Linh tinh đủ việc chúi mũi chúi lái thần sắc hư hao nhưng anh Hoàng Xuân Sơn tâm sự, đa phần những bài thơ nằm trong thi tập “Huế Buồn Chi” đều được viết ra trong giai đoạn “hồn lìa khỏi xác” nọ.

Không nên gạn hỏi nhà thơ, cớ sao lại Huế buồn chi? Tự tìm câu trả lời thích hợp: ngoài chuyện xa nơi chôn nhau cắt rốn tang thương, anh em chúng tôi còn lòng dạ nào vui thú với việc làm bất ưng chốn đây? Buồn ngủ mà suốt đời chẳng gặp chiếu manh, cứ đè thầy tu mà mượn lược cố xá. Bắt cóc bỏ dĩa. Biểu trói gà mà chẳng đưa được sợi giây. Vắn tắc: cực chẳng đã, không sướng, dễ hư bột hư đường. Dễ từ chết tới bị thương. “Thôi thà cứ để nguyên lòng giấy, trắng cả chân như trắng cả lời”. (HXS).

Hai kẻ Việt Nam lìa quê xa vạn dặm loay hoay trong cộng đồng mắt xanh tóc vàng để bị chúng nó phân lìa ra, mỗi người một góc hồn ai nấy giữ. Anh Hoàng Xuân Sơn nói tiếng Anh với chúng, tôi thì sử dụng Pháp văn pạt-lê-phờ-răng-xe. Xe qua dốc dựng xuôi miền, người ôm hệ luỵ thấp triền áo cơm. Đôi lúc cả hai giả ngây nói tiếng Đan Mạch có nhuận sắc Việt ngữ cho hả cơn giận sau những giờ túi bụi lùng bùng, nói sướng mồm mà chẳng chết thằng Tây nào cả: Mẹ rượt, có biết chúng ông là thành phần quen lao động chữ nghĩa không hở? Một ngày đẹp trời nào đấy chúng ông sẽ trở lại bắt bọn bây cặm cụi in sách cho chúng ông. In ấn thậm đàng hoàng siêu đẹp đẽ, gây ra lầm lỗi là chúng ông đếch có giả tiền, dẫu một xu đen.

Tuyết không rơi vào mùa hạ, phượng đỏ chẳng ra bông vào mùa đông nên chúng ông ngậm bồ hòn làm ngọt ngày ngày đổ mồ hôi sôi nước mắt mà ngâm câu kệ: Tình xê la mua, tiền xê lạt răng, đời xê la vi. Ba xu triết lý ngẫm cũng đủ hinh hích cười nửa miệng. Bắt mỉm chi cười mím chi, cho vui nhếch mép để rồi nín thinh!

Vì nhà thơ mang tên Sơn nên thằng cai khi giao việc thường la toáng: Ê son, son. Dễ nực gà vì chữ ấy tựa như cha gọi con. Mụ nội mi, tao là Sony, biết không hả? Tôi thì phổng phao với danh xưng bác Hồ bé tí. Chúng nó biết tỏng ông Hồ có thời cong đít đi rửa chén bát do bởi chúng từng in cho ai đó một xấp tài liệu những ôn chóp bu cộng sản cùng bọn hậu duệ. Dĩ nhiên chúng cũng rành sáu câu mà mông-xừ Mirek Chojecki ở trong Công đoàn Đoàn kết Ba Lan từng nói: “Những người Cộng sản là những kẻ không được bình thường!” Chúng tôi chạy trốn cộng sản nên chúng tôi rất mực bình thường. Chúng tôi trả giá sòng phẳng cho những thất thoát cũng như nhận mua niềm vui hiếm muộn chẳng mặc cả. Công ăn việc làm khiến cảm xúc hư hao nghèo dần, muốn tìm điều quân bình chúng tôi phải thiếp đi trong mộng tưởng mà chỉ có vật lộn cùng thơ văn mới giúp chúng tôi đứng vững trong thế giới thợ thuyền tạp nhạp.

Rồi người mang tên Sơn khuân núi bỏ đi, bác Hồ bé tí vẫn cực thân ở lại bám trụ tìm đường cứu… thân.

Chấp nhận đắm mình vào mê hồn trận vì vẫn ngại một cuộc giải phóng, bức rời đi, thoát khỏi nó và rồi lại loay hoay thi gan nhảy vào một trận đồ khác? Trịnh Công Sơn có chữ dùng thậm hay, thậm chính xác: Đường chạy vòng quanh, một vòng tiều tuỵ… Hoặc “đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt “. Một vòng tròn khép kín tựa như chiếc nhẫn tròng vào ngón tay áp út của sống đời chồng vợ. Nhẫn là nhẫn nhục nhịn nhường nhân như nhu.

Chủ lớn là một vị nữ lưu, là công chúa được vua cha giao truyền ngôi báu cai quản cơ ngơi. Có trưa “bà chủ” bắt gặp thằng nhân viên quèn đang ngồi trên bãi cỏ cúi mặt với giấy viết hí hoáy ghi chép.

Mi không ăn trưa?

Đã.

Chẳng lẽ mi là nhà văn?

Phải.

Hú hồn! Thú thật là tao không ngờ tới.

Trang vở còn mở rộng, để ngõ. Nắng dội vàng những tuồng chữ hoa mắt.

Mi viết những gì?

Fiction.

“Hay gì bà hỏi đến tôi. Khóc thì trái thói mà cười vô duyên” (Trần Huyền Trân).

Đối thoại ngắn vì lunch-time rất giới hạn, chóng mãn. Vu vơ, chiếu lệ, ngỡ sẽ chìm quên. Nhưng không, lại tái ngộ, cảnh cũ, người xưa. Tao rất thích hình ảnh một kẻ đưa đầu trần ngồi chết trân dưới nắng để viết quên ăn, lơ là luôn cả ngoại cảnh. Và bà chủ có lối chấm câu rất ấn tượng: Tao đã lên lương cho mi. Tuần tới nhận ngân phiếu, tự khắc biết.

Cho hay văn chương hạ giới rẻ như bèo hay không, hạ hồi phân giải. Trước mắt, người ấy nghe ta biết vọc chữ tư duy người ấy có đổi thay. Ấy, chẳng qua nhà ngươi vì hoàn cảnh mà hoán đổi thân phận chịu đầu quân dưới trướng ta làm việc tạp nhạp sinh bất phùng thời không tìm ra giờ hoàng đạo. Bản cô nương vẫn quí trọng kẻ hiền tài, tốn thêm ngân lượng cho ngươi ta thật chẳng tiếc! Chỉ hận một điều, ấy là ta không đọc trôi chữ nghĩa bí hiểm của bộ tộc nhà ngươi.

Người viết văn vẫn chậm lụt mài bút nơi hiểm địa, trong lúc núi kia đắm vàng mùa Xuân. Nhà thơ lại cho ra đời thi tập Lục Bát. Thằng đồng chí cũ vẫn quẩn quanh cổ thành mòn vẹt những đế giày đường hầm không ánh sáng gay cấn chuyện đẻ sinh, để nghe tin xa từ Laval truyền về, bây chừ ta đổi món, ta chơi phóng bút và ta vất vào cõi bạc tình cuốn bí kíp Cũng Cần Có Nhau.

Có khi cấu thành chữ nghĩa bí hiểm thì cha đẻ ra thơ ấy là Sử Mặc. Tôi đã từng bắt tay hai ôn Mặc Sơn, vậy thì phải kíp mọc thêm “cũng cần có tay” để ôm choàng anh chàng văn xuôi hiện hữu bất ngờ. Hát hay và hay (ca) hát. Thơ hay và hay (làm) thơ. Ngoài song long cầm nã thủ giờ thì thi triển tuý quyền huê dạng cước bộ gừng càng già càng cay.

Mi còn làm chỗ cũ?

Còn. Vẫn trú thân hiểm địa.

Lâu hung! Mi hẳn còn năng, chảu vảy.

Ngó rứa đó nhưng nội thương thì mô có chộ được. Eng thì ra reng?

Ta đã nghỉ hưu. Sân sau chẳng có gà mà đuổi. Mây trắng trôi nhanh qua đầu! Tặng mi cuốn ni đọc chơi.

Móc viết từ túi áo. Mi về ta cho mi về, chờ lật trang đầu ta đề câu thơ. Ui chao tuồng chữ cứng cáp hiển lộng e chừng hổng khớp cho tuổi hưu trí mô nghe. Còn năng hung, cắt đầu gối máu hẳn còn ràn rụa, thậm sung. Hay là hết xí goách chuyện lao động chân tay thôi, còn món kia thì vẫn ngon cơm thường hằng. “Đời không khoá một linh hồn để ngõ, miệng quỳnh thơm xin cứ nhả hương vào”. (HXS).

Đừng nói là người làm nhiều thơ, bút lực dồi dào. Ngay cả trí nhớ, người tuồng sắc sảo khi bước về miền quá khứ, mồm một, chi li. Rứa mà còn thưa thốt lời ốt dột: “viết hồi kí đòi hỏi phải có một đầu óc khá minh mẫn…” Ôi chao, nếu thực sự là vậy thì suốt đời kẻ hèn này phải lánh xa thể loại ấy, bởi có những sự việc vừa xảy ra hôm qua, hôm nay đã vội thừ người cật vấn, mi đã thanh thỏa chưa, mi còn nhớ hay mi đã quên? “Chìm sao vội đắm muôn nghìn khúc kể, chiếc thuyền con và tuổi nhỏ không về” (HXS).

Tôi rất yêu chuộng cái kết luận mà nhà thơ đưa ra: “Rồi ra, nghiệm thấy một điều. Chỉ xin nghiệm một điều: Bạn ơi! Lúc tuổi đã dần dà ám sương, dù đã bằng hữu hay chưa bằng hữu; hãy đến với nhau, nhìn ngắm nhau thân thiện. Hãy thăng hoa lòng tử tế. Và đừng nên nói với nhau những lời cay đắng. Để làm gì?”

Chung chỗ, chung công việc trong gần hai năm với anh Hoàng Xuân Sơn tôi vẫn thầm nghi hoặc, sao “đại ca” này giao tiếp rộng, bạn bè đông vui quá thể. Để bụng, không tiện hỏi. Và giờ đây thì ngó ra đáp án, “Cũng Cần Có Nhau” là cuốn sách kể lại một chặng đường thời trai trẻ, tháng ngày ấy thật tươi đẹp vì nhân vật chính đã quây quần cùng bằng hữu, đã chia sẻ với họ với tấm lòng thành chẳng nghi ngại. Một trái tim nhân hậu, một sự tử tế viết hoa. Giữa họ tuồng như không có đất để mọc lên cay đắng. Cái kết trong thiên phóng bút dường như mới viết ở đêm qua, quá khứ gần. Đế làm gì? Để cuộc đời này hẳn chúng ta “cũng cần có nhau”.

Đi làm (vẫn còn năng), tôi mang sách theo đọc khi ngồi métro, suýt xuống nhầm trạm vì những con chữ trong sách mang tội quyến rũ chúi mũi chúi lái. Vào hãng, bà chủ chào “hai”. Tôi đáp “ba”. (Bả muốn trau dồi ngôn ngữ bộ tộc xa lạ). Bà ngó thấy cuốn sách. Của mi? Phải chăng? Tôi cho bà ta xem ảnh tác giả. Mi còn nhớ hay mi đã quên? Lạy Chúa tôi, Sony đây mà, đúng thế chăng? Lọ phải ngôn, còn ai trồng khoai đất này? Cha chả, có ai dè chốn này đã là nơi ngoạ hổ tàng long!
Sách in ở đâu mà ngó cũng mượt? Tôi nhún vai, dĩ nhiên là những cái máy cổ xưa sẽ không đủ tài cán.

Tôi ngó về một góc khuất, thế kỷ trước, chỗ ấy, nhà thơ Hoàng Xuân Sơn một mình một cõi làm việc trong mộng du để chiều về đọc cho tôi nghe, nhin nhín: em lên côi bợt em ngồi, tới bờ em đứng khóc mùi mẩn em.

Nhà thơ đang thong dong ở nơi khô ráo. Tôi vẫn mỗi ngày bơi qua sông rộng, lên bờ có khi tôi đã mùi mẩn khóc. Những giọt nước rỉ rả chảy ngược bên trong. Lệ, là thứ cần có. Tôi yêu tất thảy những ai còn biết khóc, để thấy vui khi nhìn ra một nụ cười.

Cám ơn nụ cười tròn đầy của anh Hoàng Xuân Sơn.

Hồ Đình Nghiêm
(Đem theo iPad và viết trong giờ cơm trưa quên giờ giấc)
Nguồn: Tác giả gửi

Đã đóng bình luận.