Nhật Lệ
Các câu hỏi [1] cho anh Bùi Chí Vinh (BCV).
1. Những bài thơ viết về biển Đông của anh ngay từ những năm 1979 đến 2012 đã làm rướm máu trong tim người đọc. Thơ ca phải chăng không bất lực trước nỗi sợ hãi và bá quyền? Và phải chăng nhà thơ không chỉ biết tụng ca, mà còn biết đau, biết tiên cảm, biết tỉnh thức người đọc? Anh nghĩ gì trước tình hình biển Đông dậy sóng trở lại hôm nay y như những lời “tiên đoán” của anh hôm qua?
BCV: Thi sĩ trước tiên vẫn là một con người. Con người đúng nghĩa “nhân chi sơ tính bản thiện” làm lành lánh dữ. Là con người nên thi sĩ phản ứng mạnh mẽ trước mọi dấu hiệu xâm lược của ngoại bang. Phản ứng dứt khoát không do dự không sợ hãi. Thậm chí sẵn sàng nhận nhiệm vụ hứng viên đạn bay về quê hương mình đúng với truyền thống “quốc gia hưng vong thất phu hữu trách”. Tuy nhiên ngoài chức năng “con người” thì thi sĩ còn mang thiên chức của một nhà tiên tri. Một thi sĩ “thứ thiệt” bao giờ cũng đánh hơi, cũng “ngửi” ra trước đồng loại các hiểm họa của tương lai. Chính vì thế trong khi nhiều người giả vờ ung dung trước mối tình hữu nghị vớ vẫn Việt-Trung đầy ảo tưởng thì tôi đã thấy đó là “cái bẫy” mà những kẻ cầu an giăng sẵn cho mình. Bằng những bài thơ đánh giặc phương Bắc ngay từ năm 1978 tôi đã gióng lên tiếng chuông báo động cho mọi người cảnh tỉnh. Ngoài ra, bằng tư thế của một thi sĩ trực tiếp cầm súng trong đơn vị E10 đặc công thủy Rừng Sác đóng quân trên đảo Long Sơn lúc đó tôi đã viết như sau:
Địa chỉ đặc công thuỷ
Nước là nơi chúng tôi hồi hộp
Ngực bỗng có vây và chân có đuôi xòe
Hai tay bỗng duỗi dài như bạch tuộc
Đón thủy triều sau cơn khát say mê
Nước là nơi chúng tôi ra đi
Những thằng con trai coi thường bão biển
Không biết mình giống hệt nhân ngư
Qua tiếng hát tỏ tình trừu tượng
Nước là nơi chúng tôi xuất trận
Cá sấu gặp nhau không hẹn ngày về
Chúng tôi chia tay, miệng đầy nước mặn
Mà ngọt cái nhìn chiến thắng hả hê
Nước là nơi lưng giắt lưỡi lê
Bén và ngọt như đau thương, hạnh phúc
Ai cũng để dành hào khí Yết Kiêu
Trong cách thả bọt lạnh lùng như cá vược
Nước là nơi chúng tôi tìm nhan sắc
Biển và em chen chúc đến nồng nàn
Như thể đó là chiếc gương soi được
Tiếng nói ban đầu của tình ái lặng câm
Ở với nước ai dám quên tình đất
Đất như mía lau để nước ngọt như đường
Chúng tôi lớn suốt một thời đánh giặc
Tình nguyện làm người gác cửa quê hương
Đảo Long Sơn, 1980
2. Những câu thơ cứ nhẹ như không: “Em ơi em tự do có thật / Mộ gió cha ông cũng có thật kia kìa…”, cho đến dữ dội: “Biển Đông không có chỗ cho Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống rạp mình hèn hạ / Không có chỗ cho tàu Hải Giám, tàu Ngư Chính “giả nai” quen thói mơ hồ / Cũng không có dầu hỏa cho cường hào, không có ngư trường cho ác bá / Chỉ có cọc nhọn Bạch Đằng và cánh tay “Sát Thát” khát tự do”. Hay: “Cái giá của tuyên ngôn lạ lùng như thế / Quá khứ có thịt xương nên hiện tại có luân hồi / Tương lai không dành cho bọn sâu bọ làm người / Không thuộc độc quyền rước voi giày mả tổ”, bên cạnh đó là lòng yêu nước thấm thía không hề hô hào: “Sự rung động của các tế bào gây cảm xúc”. Những bài thơ như Lai lịch một bản hiến pháp, Huyết thư từ biển Đông, Nỗi đau của mẹ Việt Nam là những bài hay, nhiều câu thơ đắt giá. Anh có thể cho biết nhờ đâu mà anh viết những câu thơ “thần sầu” như vậy?
BCV: Tôi đã trả giá những bài thơ mà bạn rung động bằng máu. Máu thực sự được trích từ cánh tay nhỏ xuống những lá đơn tình nguyện xin được ra chiến trường vào cuối thập niên 1970. Bạn phải nhớ rằng không ai muốn một nhà thơ công tác tại Thành Đoàn mới 24 tuổi vừa đoạt giải thưởng Văn Học TPHCM năm 1976-1977 thuở đó phải chết ở trận mạc. Vô bộ đội, tôi được cấp trên bố trí về Bộ Tư Lệnh Thành nằm ở Ban Tổng Kết Chiến Tranh đầy an toàn và sau đó làm tờ báo Quyết Thắng của Thành Đội. Xin lỗi, nếu muốn làm báo thì chẳng thà tôi ở lại báo Tuổi Trẻ chứ làm đơn tình nguyện đi lính làm chi. Theo tôi, đã dám cầm súng là phải đánh giặc và đã đánh giặc là đánh ngay tại chiến trường chứ không “đánh võ mồm” trong phòng máy lạnh như “lính kiểng”. Thuở đó tôi đã làm đủ mọi thứ, kể cả “vô kỷ luật” để được đi chiến đấu. Tôi trút kỷ niệm thời ở lính trong bài thơ MÙNG 1 TẾT NÓI VỀ KẺ THÙ ĐẤT NƯỚC như sau:
Năm 1978 hồi xưa tôi đánh giặc ngoại xâm bằng súng
24 tuổi vác AK đi kiếm bọn Tàu
24 tuổi bỏ Thành Đoàn đâm đầu đi lính
Bọn Tàu vẫn còn nguyên còn tôi bị nhốt quân lao
Hồi đó tôi đa tình và hào khí ngất cao
Đọc thơ trước hàng ngàn hồng binh như tráng sĩ
3 thằng Sáu Quốc, Bảy Dũng, Hai Long cùng cắt máu ăn thề
3 thằng vất sau lưng chính trị
Năm 1979 xác Sáu Quốc ở mặt trận Kampuchea không tìm thấy
Năm 1980 Bảy Dũng vô kỷ luật ở tù
Năm 1981 tôi lãnh đủ hồ sơ loại ngũ
Giấc mộng anh hùng trở thành ác mộng đạp xích lô
Kể từ đó tôi sống bằng Thơ
Thơ tình, thơ du côn, thơ bại trận
Tôi làm thơ để trả nợ giang hồ
Trả nợ cho những thằng bị bắn
Tôi trả nợ cho những thằng bị bán
Tuổi thanh xuân bị bán giữa chợ đời
Bọn “quan chức con buôn” không một ngày cầm súng
Ngồi phòng máy lạnh hậu phương gác cẳng duyệt thơ tôi
Năm 1978 hồi xưa đốt cuốn “Sông Đông Êm Đềm” chơi
Thiêu cháy nhân vật lãng tử Grigori rồi ra trận
Cái chết xem nhẹ hơn lông hồng
Làm thơ thua xa siết cò súng
Năm nay 2013 tự nhiên mê tập bắn
Bia bắn giờ đây là bọn xâm lược cường hào
Bia bắn giờ đây là lũ tay sai bán nước
Thèm bắn một lần xuyên thấu tận ngàn sau!
Mùng 1 Tết Qúy Tỵ
3. Nhà thơ, như trong Bài hành về thi ca, Gia huấn ca, chùm bài Bàn về nhân tính anh đã nói rất rõ bản chất của sự hèn đớn, phi nhân, thay vì là những kẻ nổi loạn tiên phong đi trước thời đại. Liệu đây có phải là lúc để họ thức tỉnh người đọc bằng chính sứ mệnh của mình, hay mãi mãi chỉ là dòng “bên lề”? Chúng ta có quyền tin vào sức mạnh của văn chương nữa hay không?
BCV: Ai không tin chứ tôi luôn tin vào sức mạnh văn chương. Cái xấu cái ác, cái phi văn chương có thể thắng tạm thời trong một giai đoạn nào đó nhưng “văn dĩ tải đạo” vẫn là bất diệt. Sách sử ngày xưa từng ghi chép chuyện nhà vua phải vái chào kẻ sĩ trước lúc hai bên chạm mặt hội kiến chứ không phải như ngày nay “vua chèo còn chẳng ra gì – quan chèo chi nữa khác chi phường tuồng” (thơ Nguyễn Khuyến). Chính vì sức mạnh văn chương cũng là sứ mệnh của thi sĩ nên ngoài sự bị thiên hạ nghi ngờ là “đi trước thời đại” các nhà thơ có tài năng còn bị cả một hệ thống đồng loại dèm pha đố kỵ vu khống không ngừng. Thời phong kiến nhà Nguyễn, thiên tài Cao Bá Quát là một trường hợp đơn cử cụ thể nhất. Lúc còn bé Cao Bá Quát tắm truồng dưới ao bị kiệu vua quan đi qua bắt giữ. Vua ra câu đối “Nước trong leo lẻo cá đớp cá” họ Cao đối lại rằng “Trời nắng chang chang người trói người”. Còn bé mà chí khí đã kinh dị. Lớn lên bị đày đọa phải tham gia khởi nghĩa “giặc Châu Chấu”, khi bị giam cầm vẫn hào sảng khạc 2 câu “Một chiếc cùm lim chân có Đế – Hai hàng xích sắc bước thì Vương” rõ là khẩu khí của bậc đế vương giáng phàm vậy. Đến khi chết vẫn khinh khoái ngửa cổ nhìn nhát gươm đao phủ đọc 2 câu đối để đời “Ba hồi trống giục, đù cha kiếp – Một lưỡi gươm đưa, bỏ mẹ đời”. Thời đó, chữ nghĩa văn tự của Cao Bá Quát cũng bị tru di tam tộc. Nếu không có nhân dân nghe, không có người hâm mộ chép thì giờ đây chúng ta đâu thấy được sự vĩ đại của thi sĩ tiền nhân.
4. Suy nghĩ của anh về vai trò của người cầm bút không bồi bút, liệu có chỗ dung chứa cho con người như thế trong xã hội hôm nay?
BCV: Như đã nói về sự bất tử của thi hào tiền nhân Cao Bá Quát, người không cam tâm làm “bồi bút” của triều đình mà những tác phẩm của họ Cao đến giờ này vẫn còn làm chúng ta choáng váng thì … vận mệnh của thi sĩ, của người cầm bút chân chính vượt ra khỏi thời đại mà họ đang sống. Chính vì “hiền tài là nguyên khí quốc gia” nên chế độ cai trị nào không dám sử dụng hiền tài thì đất nước ấy không có… nguyên khí. Người cầm bút có tài nếu chết đi thì tác phẩm của họ (bằng cách nào đó) vẫn được lưu truyền từ đời này sang đời khác, trong khi những kẻ từ chối họ, không dám sử dụng họ sẽ phải chịu “bia miệng ngàn năm” tiếng đời nguyền rủa theo đúng luật nhân quả.
5. “Cái dằm cong giống trái tim/Làm rung con mắt của thiền em ơi”, vì sao thơ tình của anh “thiền” đến được mức như vậy, trải qua thời tưng tửng, mạnh bạo, ám ảnh “cà rem”, đến thời “rang ái tình trong từng tóp mỡ”?
BCV: Một kiếp người bắt buộc phải trải qua nhiều chặng đường. Chặng đường thời mới lớn coi trời bằng vung, coi cái chết tựa lông hồng, coi tình ái như trò chơi lãng mạn (tất nhiên trong trò chơi ấy người chơi cũng phải chịu trách nhiệm). Đến một lúc nào đó thi sĩ trưởng thành, thậm chí trải qua định mệnh sinh tử, tự nhiên chặng đường “thiền” xuất hiện. Nhưng thiền ở đây không phải a dua theo sách vở, không phải bầy đàn theo trào lưu thời thượng, mà thiền của tôi là mượn thiền để công phá công án về thiền. Tôi có 4 câu thơ giải quyết “thiền” như sau:
Các ngươi bàn về tu luyện
Kẻ đại thừa, kẻ tiểu thừa
Kẻ nào cũng sắp thành Phật
Chỉ mình ta còn gươm khua
6. Thơ Bùi Chí Vinh trải qua những bước thay đổi, từ ngang tàng, bụi bặm, sổ toẹt, đến hài hước, tỉnh queo mà đau thắt, từ thơ tán gái đến thơ phiếm luận, rồi “chính luận”, chỉ một bước là “thăng” hoa. Anh có thể nói gì về điều này?
BCV: Tôi sẽ nói về điều này trong 2 câu:
Cái gì không địch không ta
Xét ra thì nó chính là… văn chương !
7. Trong tập Thơ đời, em thích bài Mở, Ngó lại tiền nhân, Anh và em, Khép, Sự nhẹ dạ của Nguyễn Trãi, Tâm sự của người máy… cùng nhiều bài nữa. Có một Bùi Chí Vinh sâu sắc, đa chiều, triết lý trong sự bông lơn, bỡn cợt mà vẫn thanh thoát, đặc biệt là cách tuyên chiến “nhổ vào những điều ma mị”. Anh nghĩ gì về giai đoạn sáng tác này?
BCV: Giai đoạn đó tôi như một lò xo nén, hoàn lực và bung lên hết ga. Tôi không thể chìu chuộng mọi người bằng cách làm thơ tình, đọc thơ tình ve vuốt mơn trớn đám đông trong khi cuộc sống có quá nhiều người bất hạnh, có quá nhiều bất công nhan nhản hằng ngày mà chúng ta đều tai nghe mắt thấy. Tôi chống lại sự đóng khung của chính tôi trong thơ Tình để bước qua làm thơ Đời đau đớn và thống khoái. Thậm chí bài thơ MỞ mà bạn thích thì chính tôi đã dùng nó làm diễn văn bằng thơ đọc trong Hội nghị Nhà Văn Trẻ toàn quốc năm 1994 tại Hà Nội. Giống như tiền nhân Cao Bá Quát, tôi đọc thơ mà không sợ gì cả, kể cả bị … chém đầu. Cũng may thơ Đời của tôi cũng có nhiều vị lãnh đạo công nhận, khoái nghe còn nhân dân thì… miễn bàn.
8. Không chỉ làm nhà thơ thứ thiệt, anh còn vẽ tranh, viết kịch bản phim, viết truyện cho thiếu nhi. Phải chăng đó là những nghề kiếm sống, ngoài thơ?
BCV: Đúng vậy, tôi kiếm sống bằng nhiều nghề khác ngoài thơ, trong đó có nghề vẽ tranh sơn dầu, viết truyện dài nhiều tập cho thiếu nhi và viết kịch bản phim nhựa. Mỗi nghề đều sống được một giai đoạn nào đó nhưng chẳng nghề nào kéo dài được lâu vì … xin nói thẳng, những người có quyền lực thường không ưa những văn nghệ sĩ dám nói dám làm dám viết. Có vài đoạn thơ của tôi nói lên điều này:
Bao nhiêu đợt sóng xô
Nhấn ta chìm dưới đáy
Ta chẳng hề mơ hồ
Trước cánh buồm đã gãy
Thơ ta là hoa trái
Không kiếm được mảnh vườn
Tranh ta là máu chảy
Dính trên đầu lưỡi gươm
9. Có một Bùi Chí Vinh công dân trong thơ, hay một người lính luôn dám đối diện trước những trang sử của thời đại. Anh nghĩ gì về dòng thơ thời sự gần đây của các nhà thơ, và của chính mình? Gần đây, anh có những bài thơ mới nào không? Có tập thơ mới nào? Có thơ dịch? Có thể gửi cho em chùm mới?
BCV: Tôi ủng hộ những nhà thơ, những người làm thơ dám chống giặc Tàu xâm lược, dám lên tiếng chống bất công xã hội, chống bọn ăn trên ngồi trốc, bọn sâu dân mọt nước, bọn hư danh theo đóm ăn tàn. Đáng tiếc những bài thơ như thế hiện nay chỉ xuất hiện trên mạng, chứ chưa thấy báo in nào đủ dũng cảm đăng lên. Tôi đang chờ đợi “thơ đặt hàng loại đó” từ các hệ thống chính trị để thấy nước nhà khá lên.
Mới vừa rồi Bae Yang Soo, nhà thơ, nhà nghiên cứu văn học quốc tế nổi tiếng người Hàn Quốc cư ngụ tại Busan vừa gửi tặng tôi cuốn THE POET SOCIETY OF ASIA (Các thi sĩ của châu Á) do ông biên soạn và phát hành năm 2013. Ông chọn tôi đại diện cho Việt Nam và đặc biệt lại chọn trường thi BÀI CÁO HẬU BÌNH NGÔ để chuyễn ngữ sang tiếng Hàn Quốc. Không biết Bae Yang Soo dịch ra sao nhưng dám chọn một bài thơ dài nhiều điển tích và “ý tại ngôn ngoại” như thế là chuyện… không thể đùa chút nào. Tôi cũng đoán ông có máu “ghét” Trung Quốc vì BÀI CÁO HẬU BÌNH NGÔ là một bài hịch chính khí ca dành để… đánh giặc phương Bắc xâm lược và đám tay sai cõng rắn cắn gà nhà. Xin giới thiệu nguyên tác bài thơ ở đây …
BÀI CÁO HẬU BÌNH NGÔ
Bùi Chí Vinh
“Như nước Việt ta từ trước
Vốn xưng văn hiến đã lâu
Sơn hà cương vực đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác”
Lần thứ hai, đất nước
Khoác ba lô theo Nguyễn Trãi lên rừng
Bài tuyên ngôn chuẩn bị trước mười năm
Chân trái đạp đầu quân Minh, chân phải bước vào Văn Miếu
Có phải lần trước bên này sông
Lý Thường Kiệt ung dung phát biểu :
”Nam quốc sơn hà Nam Đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư…”
Bài tuyên ngôn đầu tiên khi chưa xác định màu cờ
Dung tích máu không có ngân hàng nào chứa nổi
Ông cha ta đánh giặc, ông cha ta làm thơ
Ngọn giáo chẳng suy tư dù dạ dày có đói
Lương thảo ở Lam Sơn được đo lường bằng xác con ngựa già chia những phần ăn cuối
Thực đơn của nghĩa sĩ Tây Sơn trên võng cáng băng rừng là cơm nắm, rau măng
Những cuộc hành quân không nhờ cậy thánh thần
Được ra đời giống như truyền thuyết
Mà truyền thuyết cũng vô cùng đặc biệt
Những cuộc hành quân nhà chép sử phải đau đầu
Mười vạn chiến sĩ nông dân vượt sông Mã ra sao
Để kịp ăn Tết Thăng Long với anh hùng Nguyễn Huệ ?
Hàng trăm thớt voi vượt sông Cả thế nào
Để hoa đào Nhật Tân không nở trể ?
Cái giá của tuyên ngôn lạ lùng như thế
Quá khứ có thịt xương nên hiện tại có luân hồi
Tương lai không dành cho bọn sâu bọ làm người
Không thuộc độc quyền lũ rước voi giày mã tổ
Không nằm trong tay đám cõng rắn cắn gà nhà láu cá
Tương lai là của những kẻ đứng mũi chịu sào dám đem hạt gạo xẻ làm đôi
Những kẻ dám mở cuộc hành trình chống suy dinh dưỡng
Từ nạn đói năm 45 đi tới tiếng cười
Chúng ta yêu nhau đúng quy luật con người
Em yêu anh và anh yêu em đấy
Đừng quay đầu và đừng khép đôi môi
Khi tim cùng đập ở lồng ngực trái
Có Hội Thề Lũng Nhai mới có quân sư Nguyễn Trãi
Có bô lão mài gươm mới có Hội Nghị Diên Hồng
Hạt thóc thành cơm nhờ cấy ở trên đồng
Không có hạt thóc nào tái sinh nếu gieo trên sàn lót nệm
Chúng ta yêu nhau chẳng cần ai bảo hiểm
Những đứa con như những chứng từ
Đất nước mình phải cấp chứng minh thư
Cho bất cứ ai làm ra sản phẩm
Nếu chiến tranh sinh ra những bài tuyên ngôn chiến thắng
Thì hòa bình còn lâu mới là bức bình phong mang khẩu hiệu giả hình
Đừng bắt Phật bị cầm tù, đừng bắt Chúa bị đóng đinh
Con mắt láo liên làm sao mà nhìn thẳng
Mười ngón chân ta không mọc đằng sau nên không hối hận
Lúc bước đi gặp dấu của ông bà
Lúc đọc bài thơ gặp bát ngát trường ca
Làm sao nói hết về tình yêu tổ quốc
Cái lai lịch trong một chương, cái cội nguồn trong một mục
Cuộc sắp xếp văn minh trong trật tự mỗi điều
Cũng như làm sao minh họa hết tình yêu
Sự rung động của các tế bào gây cảm xúc
Ta yêu tổ quốc bằng bài thơ giữ nước
Đại Cáo Bình Ngô một thuở lên đường
Ta yêu tổ quốc bằng bài thơ dựng nên cột mốc
Biết giữ gìn từng tấc đất biên cương
Uy lực của một nước có chủ quyền từ hàng loạt tuyên ngôn
Cuộc chiến đấu ngàn năm bằng chữ
Luật Hồng Đức, luật Quang Trung
Hiến pháp của Rồng Tiên đó chứ !
Ta bỗng thơ ấu như bắt đầu tham dự
Chuyện kể ngày xưa về cô chú ông bà
Ta bỗng nồng nàn hiểu máu và hoa
Thấm thía trong từng chương vệ quốc
Ta bỗng bàng hoàng thấy đường trên mặt đất
Có triệu bàn chân Nam tiến phá rừng
Ta bỗng hiên ngang tuyên bố rõ ràng
Bờ biển Việt Nam hình cong như chữ S
Đất nước Việt Nam bắt đầu từ ải Nam Quan bất diệt
Đất nước Việt Nam kết thúc bằng mũi Cà Mau lẫm liệt
Không có lý do gì giặc ngoài thù trong móc ngoặc cách chia
Máu chảy 4000 năm cho cuống rún chưa lìa
Khi trước trận thắng giặc Mãn Thanh, vua Quang Trung hiệu triệu
Khi nghĩa sĩ Tây Sơn cùng đồng thanh phát biểu :
”Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”
Ta bất chợt nhìn ra mình thật sự
Máu cha ông đổ ra thì ruột con cháu bắt buộc mềm
Ta hạnh phúc nhập hồn vào kinh sử
Nỗi nhục bị đô hộ 1000 năm không được phép lãng quên !
Cám ơn anh đã trả lời cuộc phỏng vấn này…
Nhật Lệ
[1] Báo Lao Động Cuối Tuần số ra ngày 27-6-2014 có in nguyên một trang lớn Bài phỏng vấn nhà thơ Bùi Chí Vinh trong mục Gặp Gỡ Cuối Tuần về các vấn đề thời sự chính trị và văn chương trong nước hiện nay.
Nguồn: Bùi Chí Vinh gửi


















