Biển quê ngoại

Posted: 19/08/2014 in Minh Nguyễn, Tùy Bút / Tản Văn / Ký Sự

Minh Nguyễn

nha_tho_xuong_dien

Đã mấy tháng qua, kể từ lần chia tay Nhã sau chuyến đi khám phá Bình Ba trở về, tôi không nhận được tin tức gì từ cô gái xinh đẹp xứ Lạng. Hay do việc giàn khoan HĐ 981 xâm phạm chủ quyền biển đảo nước ta, đã ảnh hưởng tới tình hình biên giới phía Bắc, khiến dân tình bận rộn nên cô quên luôn bạn bè?

Đang khi lo lắng chưa rõ lý do vì sao, sáng nay tôi bỗng nhận được điện thoại của Nhã, rủ đi Nam Định tắm biển Quất Lâm, tiện thể khám phá biển Hải Hậu gần đó, nơi gần đây được giới “phượt thủ” các tỉnh phía Bắc, khen không tiếc lời về bờ biển trải dài trên 32 cây số, bao gồm những cánh đồng muối, làng tơ tằm, quần thể các nhà thờ đổ, đẹp chuẩn không cần chỉnh; đặc biệt, với bãi tắm Thịnh Long hoang sơ, thuần khiết, bên rặng phi lao xanh mượt mà, cách Hà Nội chỉ vào khoảng 120 cây số, tính ra gần hơn so với thời gian đi biển Sầm Sơn – Thanh Hóa, hay đi ra biển Đồ Sơn – Hải Phòng ồn ào mà tai tiếng.

Thực ra, lâu nay tôi chỉ biết Nam Định là thủ phủ của nhiều nhà thờ, vừa đẹp lại vừa hoành tráng bên những kiến trúc độc đáo, lâu đời qua những mái vòm, những tầng tháp cao vươn thẳng lên bầu trời như: nhà thờ Khóai Đồng, nhà thờ Bùi Chu, giáo xứ Trung Linh, nhà thờ Phú Nhai, nhà thờ Đông Biên, nhà thờ Phansico, đền thánh Kiên Lao . . . chứ chưa biết chút gì về biển Hải Hậu, cho dù trong năm qua tôi có nghe một vài người quen nói: “ Hải Hậu là quê ngoại của tôi”, vì vậy tôi đã rắp tâm hẹn một ngày nào đó sẽ tìm về quê mẹ.

– Anh yêu, tuần tới mình làm một chuyến về Hải Hậu, khám phá vùng biển mà các bạn trẻ ngoài này đang hối hả đổ về đấy ngày một đông. Liệu anh có thể đi cùng với em một chuyến được không? Nhã hỏi.

Trước lời mời mọc chân tình, cộng thêm Hải Hậu là nơi mà bấy lâu nay tôi mang canh cánh bên lòng nỗi thất vọng, vì chưa thực hiện được lời hứa trước những đứa em, sẽ mang về nắm đất quê hương đặt lên bàn thờ bên cạnh di ảnh của mẹ. Vậy, tại sao tôi không nhân cơ hội này nhận lời đi cùng với Nhã về Hải Hậu, một mặt khám phá vùng biển đang cực “hot” trên bản đồ du lịch, mặt khác tìm hiểu quê ngoại luôn thể?

Nghĩ vậy tôi trả lời Nhã:

– Hải Hậu vốn là quê ngoại của anh, nhưng không ngờ nó lại ở tỉnh Nam Định, thú thật anh chưa về đó lần nào.

Nhã mững rở reo lên trong máy:

– Vậy là anh có cớ để bay ra ngoài này sớm rồi.

Thực ra, trước đây lần nào từ Sàigòn bay ra Hà Nội, tôi cũng dành ra ít ngày ghé về vùng trũng Bình Lục, trước là thắp nhang từ đường họ nội ở chợ Nội- Đồng Du, sau mới lân la dò hỏi tin tức quê mẹ; bởi khi sinh thời con cháu hỏi về nơi sinh, bà kể chỉ nhớ mang máng trong ký ức âm thanh những hồi chuông giáo đường đã đưa nôi ru bà vào giấc ngủ đầy mộng mị, còn giấy tờ hộ tịch chẳng qua chỉ là sự bắt buột phải có để bà cùng gia đình đi Nam theo diện mộ phu.

Tôi quyết định nói với Nhã:

– Nhưng để tiện việc đi đứng, em hướng dẫn anh đường đi từ Nam Định về Hải Hậu nha.

– Anh định không ghé qua Hà Nội sao?

– Anh có việc phải đi Vinh sau đó ghé về Nam Định luôn.

Nhã chỉ đường:

– Từ Nam Định về Hải Hậu có 2 tuyến đường để đi: Tuyến thứ nhất xuất phát từ cửa Nam chợ Rồng đi hết cầu vượt rẽ phải, gặp đường Vũ Hữu Lợi đi thẳng tuột qua ngã tư Lê Đức Thọ – tỉnh lộ 55 cũ (490C), đến khi nào tới kí-lô-mét 42 thì rẽ trái xuống phà Ninh Cơ qua sông, chạy một đoạn sẽ thấy bãi tắm Thịnh Long. Tuyến thứ 2, từ thành phố Nam Định đi đường Đặng Xuân Bàng, hết quốc lộ 21 đến cầu Lạc Quần gặp thị trấn Cồn, đi tiếp 20 cây số sẽ về đến thị trấn Thịnh Long, bãi tăm cùng tên nằm ngay sau thị trấn.

– Ồ! Đường tỉnh lộ 55 cũ thì anh thuộc lòng rồi, vì ngay ngã 4 Lê Đức Thọ – Tỉnh lộ 55 người dân địa phương còn gọi là ngã 4 đèn đỏ, đi thêm 7 cây số sẽ tới làng rèn truyền thống nay có tên mới là Khu Công Nghiệp Vân Chàng. Ở đấy anh có nhiều bạn và thường hay về đó vui chơi.

– Anh tính chờ em ở đó chăng?

– Đằng nào em cũng chạy xe ngang mà.

– Được, em sẽ nhắn tin cho anh biết ngày giờ đón em..

Một tuần sau, thay vì đi xe open tour từ Vinh ra Nam Định, tôi được nhân viên quầy vé bến xe rỉ tai: “đi xe Hải Phòng về Nam Định nhanh hơn vì xe đang làm thủ tục xuất bến”. Nghe bùi tai, tôi đồng ý mua vé, nhưng sau đó nhận ra khuyết điểm, vì đây là đường tránh vào trung tâm thành phố, nên xe cộ đi đến các tỉnh khác đều phải bỏ khách xuống dọc đường giáp ranh giữa Ninh Bình – Nam Định. Đang lớ ngớ trước những làn đường mới mở to đùng , tôi chưa biết xoay trở ra sao, tức thì thấy có bác xe ôm trờ tới mời đi xe. Để tạo ra sự bất ngờ cho mọi người, tôi chọn cách đi xe ôm cho tiện dù biết trước sẽ bị hét giá trời ơi, do giọng nói rặt miền Nam của anh hai Sàigòn..

Đúng như dự đoán, khi về đến Vân Chàng, vừa trả tiền xe xong tôi được bạn bè biếu không cho một trận cười kiểu vợ thằng Đậu:

– Sao không gọi điện cho người ra đón để đở phải mất tiền oan?

Tôi phất tay trả lời:

– Nhằm nhò gì, lâu lâu cũng phải cho người lao động kiếm ăn chút đỉnh, có như vậy đồng tiền mới lưu chuyển.

Nghe kiểu nói chuyện huề vốn của tôi ai nấy đều phải cười xòa. Nhân lúc trà tam rượu tứ rôm rả, tôi mang chuyện Hải Hậu ra hỏi mọi người:

– Ở gần đây có huyện nào tên là Hải Hậu không?

– Quen với hoa hậu nào ở đó sao, không khéo lại gặp “hoa cái” Quất Lâm hay Thịnh Long thì tiêu.

– Hoa cái là gì?

– Là đồ sơn chứ không phải đồ nhà.

– Không phải thế. Hải Hậu là quê ngoại của mình .

– Trước nghe nói ở Đồng Du-Bình Lục kia mà?

– Đó là quê nội.

– Ở Hải Hậu còn những ai?

– Họ hàng đi cả vào Nam từ những năm 42 cơ.

– Xã nào biết không?

– Chỉ nghe kể ở Hải Hậu chứ không biết xã nào.

– Hải Hậu trước đây không chỉ là vựa lúa của tỉnh Nam Định, mà còn của cả đồng bằng sông Hồng nữa đấy. Đây là huyện đầu tiên đạt năng xuất 5 tấn lúa trên một hécta tại miền Bắc; ngoài ra, đa số người dân vùng này sống bằng nghề nuôi trồng thủy- hải sản, nghề mộc, nghề muối, riêng nghề nông nổi tiếng với gạo tám thơm và nếp hương Hải Hậu. Đặc biệt, Hải Hậu hôm nay còn được biết đến với bờ biển trải dài trên 32 cây số, chạy xuyên qua các xã Hải Hòa, Hải Triều, Hải Chính, Hải Đông, Hải Lý, cùng với những thắng cảnh khó thể bỏ qua khi đi du lịch như: quần thể nhà thờ đổ ở Xương Điền, cánh đồng muối Văn Lý, làng tơ Cổ Chất, bãi tắm Thịnh Long.

– Lần này về đây tôi sẽ đi xuống đó cho biết.

– Ở ngay đây thôi. Đi một ngày đủ chán.

Như đã hẹn, Nhã chạy xe máy ngang qua tỉnh lộ 55 được nâng cấp, mở rộng thành đường 490C, đón tôi tại đầu làng Vân Chàng. Sau đó, tôi chở cô chạy qua Liểu Đề, qua Nghĩa Hưng tới chỗ có bảng chỉ đường xuống bến phà, tôi rẽ trái ghé vào bến phà Ninh Cơ.

Trong lúc chờ đợi con phà lên khách từ bên kia sông chạy qua, Nhã cùng tôi đi dạo trên con đường mòn dọc theo bến sông, cô nói :

– Con sông mang một nỗi buồn buồn sao sao ấy?

– Lại có tí lãng mạn nữa rồi, hay sắp sửa làm thơ chăng?

– Em thấy thích nhìn những con sông trong miền Nam hơn, nó sinh động vui mắt với cảnh trên bến dưới thuyền, buôn bán ồn ào vui vẻ.

– Lấy chồng miền Nam đi, tha hồ sống với sông ngòi chằng chịch, tha hồ ngồi thuyền di chuyển hết nơi này sang nơi khác, với điều kiện phải biết ca vọng cỗ.

– Giọng Bắc của em mà ca vọng cỗ ai nghe.

– Em lầm rồi, trước 75 trong miền Nam có đến 4 đoàn cải lương Kim Chung – Tiếng chuông vàng Thủ Đô à nghe, đa phần các nghệ sĩ gốc Bắc không đó.

– Lúc ấy em chưa ra đời làm sao biết.

– Thì cứ lấy chồng miền Nam đi đã.

Nhã bạo dạn nắm lấy tay tôi nói:

– Rồi em bỏ anh cho ai?

Nghe lời đường mật ong bướm phát ra từ miệng Nhã, khiến tôi nhớ tới mùi con gái quyến rũ của cô trong lần hai đứa đi sát vào nhau trốn lạnh trên Tam Đảo. Chu choa, mùi thơm da thịt không thể lẫn vào đâu nếu so sánh với bất kỳ mùi nước hoa nào. Thôi thì con gái nói hãy tạm tin vậy đi, kinh nghiệm “con gái nói có là không”, nên việc đến được với nhau hay không còn do duyên phận. Biết vậy, nhưng sao trong tim tôi, cứ cảm thấy nôn nao như thế nào ấy.

Đoán con phà sắp rời bến để sang bên này , tôi đưa Nhã quay về bến phà, bắt chuyện với anh nhân viên trẻ đang rảnh rang, tìm hiểu thêm về dòng sông quê này:

– Xin lỗi, cho hỏi sông Ninh Cơ bắt nguồn tận đâu vậy anh?

Anh thanh niên có vẻ là dânđịa phương thứ thiệt, nhanh nhẩu chỉ tay ngược lên phía thượng nguồn giải thích:

– Đây là phân lưu hạ nguồn của sông Hồng, là ranh giới tự nhiên giữa hai huyện Nghĩa Hưng – Hải Hậu, cuối cùng đổ ra cửa Lạch Giang hay còn gọi là cửa Ninh Cơ. Vào thời Trần, con sông gắn liền tên tuổi của các tướng Yết Kiêu, Dã Tượng thông qua việc luyện tập các thanh niên trai tráng làng Ngọc Tiên xã Hành Thiên (chùa Keo), chuẩn bị cho những trận đánh trên sông với giặc Nguyên Mông; chẳng những thế, con sông còn gắn liền với sự hình thành, phát triển nhiều giáo xứ lâu đời ở miền Bắc.

Tôi hướng mắt nhìn về phía cửa sông, nơi có một số con tàu đóng dở dang, hỏi:

– Có phải xa kia là nhà máy đóng tàu trước đây?

– Năm 2008, dọc bên đê tả ngạn sông Ninh Cơ có đến hàng chục cơ sở đóng tàu lớn bé. Tiêu biểu, có các công ty con của Vinashin lúc ấy ăn nên làm ra, công nhân có lúc lên tới cả ngàn người. Nhưng than ôi! thời hoàng kim chỉ tồn tại được vài năm, sau đó gặp khủng hoảng kinh tế gì đó, các nhà máy hầu như bị bỏ hoang phế với hàng chục con tàu đồ sộ nằm chờ rỉ sét. Tội nghiệp, công nhân xưởng đóng tàu trước đây, mỗi lần có việc đi ngang, nhìn đống tại sản khổng lồ bị bỏ mặc cho mưa gió, đã không khỏi chạnh lòng thương tiếc cho những đứa con chưa kịp ra đời đã bị chết yểu do sai lầm từ cơ chế quản lý.

Con phà từ bên kia sông đã qua đến bên này cặp bến, thả hành khách lên bờ trước khi đón người mới. Tôi bắt tay từ giả anh nhân viên trẻ, chuẩn bị qua sông tiếp tục hành trình. Thôi nhé! Chào tạm biệt sông Ninh Cơ, một cái tên gợi nhớ đến những cung tần mỹ nữ nào đó trong huyền thoại của các vua chúa thời phong kiến?

Lên bờ, tôi chở Nhã chạy vòng vèo trên con đường còn thơm mùi nhựa đường vừa được sửa sang mở rộng, băng qua xưởng đóng tàu tiền tỷ đang trùm chăn, qua khu dân cư, quán xá, kịp ra đến con đường bề thế nằm đối diện với biển. Ở đó, thấy mọc lên khá nhiều khách sạn bề thế, nhà hàng, nhà nghỉ, quán cà phê, karaoke . . .nên có người ví von “ khách sạn, nhà nghỉ ở đây có khi còn nhiều hơn du khách?”. Đúng hay sai tôi chưa thể kiểm chứng, nhưng theo người dân địa phương “cứ đến mùa hè thì lượng khách du lịch đổ về đây đông như trẩy hội, muốn tìm được một chỗ ở chưa chắc đã có; bởi Thịnh Long ngày nay khác xa Hải Thịnh vào những năm 1940 hay 1960 nhờ được nâng lên thành thị trấn.

Lấy chỗ nghỉ ngơi xong, tôi cùng Nhã đi bộ ra phía sau dãy hàng quán nằm quay mặt ra biển, bắt gặp những cây sanh cổ thụ mọc ra tua tủa những chùm rể non, rũ từ trên xuống thoạt nhìn tưởng đâu mái tóc của các tiên nữ trong những câu chuyện cổ tích. Đang lang man, bon tôi bước đến đối diện với cây cột điện gió, bị chết đứng từ lâu bên những cánh quạt khổng lồ đã ngưng hoạt động. Tò mò, tôi đi quanh cái hàng rào B40 rệu rã, tìm hiểu xuất xứ cùng thời gian xây dựng cây cột điện gió, nhưng chỉ bắt gặp những dòng chữ bị hơi nước biển làm cho nhòe nhoẹt trên tấm bảng chỉ to hơn bàn tay. Trước sự phí phạm cở tiền tỉ ấy, tôi chỉ biết lắc đầu mà thương cho các vùng nông thôn nghèo khó, đang phải học hành, sinh sống dưới ánh đèn dầu leo lét thảm hại.

Rời cột điện gió, tôi cùng Nhã trốn nắng dưới những mái hiên của các hàng quán, ra ngồi trên con đê chắn sóng, hướng mắt nhìn theo từng con sóng bạc đầu đang trườn mình từ ngoài khơi vào bờ, đẩy những chiếc phao bơi cùng với những con người ngồi trên đó, cưỡi lên sóng làm dập dềnh chao đảo. Tôi buột miệng nói với Nhã:

– Sóng to gió lớn như thế này, chỉ phù hợp với các chơi trò chơi thể thao cảm giác mạnh thôi.

Nghe tôi nói vậy, chị bán hàng lưu niệm dạo đang chào mời khách, vội quay sang nói:

– Nhiều người đến đây nhìn sóng biển nói “đi biển mà không có sóng thà ở nhà sướng hơn”.

– Có chuyện đó thật sao?

– Đơn giản là vì họ thích được nhảy trên những con sóng cao hoặc vui đùa với chúng. Hơn nữa, sóng cao như thế nhằm nhò gì so với con bão Haiyan năm rồi, nhiều người thích thú đổ xô ra đây chụp ảnh bên những con sóng cao hơn 3 mét đổ vào bờ ồn ào.

– Thật là những kẻ “điếc không sợ súng”.

Nhã cười diểu cợt:

– Chỉ có dân Việt Nam mình mới thể hiện sự hiếu kỳ trên mức can đảm như vậy. (*)

Người bán hàng đoán chúng tôi không mấy mặn mà với cảnh sóng to gió lớn kiểu này, liền giới thiệu một điểm đến khác nằm trên bờ hấp dẫn hơn:

– Nếu anh chị không thích tắm trong màu nước biển nhiễm bẩn phù sa, có thể lên bờ đê trên kia đi dưới hàng phi lao xanh ngút tầm mắt vừa lãng mạn vừa đẹp nữa.

Nghe thấy vậy Nhã mừng rỡ reo to:

– Ồ! Vậy mình đi ngay lên đấy đi anh.

Để thưởng công cho chị bán hàng, tôi mua giúp chị chiếc vòng làm từ những chiếc vỏ ốc, đeo vào tay Nhã:

– Vòng cầu hôn đó, không được tháo ra khỏi tay đâu.

– Thế! Nhỡ nó đứt dây thì sao?

– Coi như chuyện tình Lan và Điệp.

– Hí hí, sao không mua vàng 18 có chắc hơn không?

Chưa kịp phân bua, trước mắt tôi hiện ra con đường phi lao thẳng tắp bên màu xanh ngan ngát, thoạt nhìn tưởng đâu đang lạc vào rừng thông Mộc Châu tháng chín, bởi hình ảnh từng đôi trai gái ngồi cạnh nhau tâm sự, hoặc tay trong tay đi dạo chơi bên tiếng sóng vổ lao xao, bên tiếng gió thổi rì rào trên hàng dương, nghe như một tấu khúc concerto đến từ thiên nhiên. Hốt nhiên, Nhã quay sang ôm lấy tay tôi đặt lên bờ ngực phập phồng của cô, kèm theo ánh mắt tình tứ cùng với đôi môi mọng chín như muốn nói “hãy hôn em đi”, khiến tôi không sao cưỡng lại được sự thèm muốn. Tôi vụt ôm choàng lấy cô, hít hà mùi hương quyến rũ đậu trên mái tóc con gái,nghe rõ nhịp đập hối hả nơi trái tim rạo rực của mình. Tiếc thay, con đường không đủ dài để cho tôi được ôm cô lâu hơn trong vòng tay, nên đành đánh rơi cơn mộng mị đang nhú mầm trong trái tim đa tình của gã đàn ông bất ngờ được đánh thức.

Xin cám ơn em, cám ơn thứ hạnh phúc đã đưa tôi từ bến bờ hư ảo trở về thực tại với những chiếc thuyền đánh cá đang nằm phơi mình trên bãi cát. Hóa ra, cuối đường phi lao có một làng chài không mấy giàu có chắn ngay lối đi. Ở đó, xuất hiện đám con trai đang chạy đuổi theo sau quả bóng, đám con gái hồn hậu chơi trò chơi mua bán đồ hàng, nhìn thấy bọn tôi bước đến với ánh mắt vừa xa lạ vừa rụt rè. Nhã nhanh trí, làm cử chỉ thân thiện bắng cách mang kẹo cao su ra chia cho từng em, nhờ vậy chẳng mấy chốc cô đã chiếm trọn cảm tình với từng đứa và dễ dàng trở thành bạn của hết thảy bọn trẻ. Để mặc cô trò chuyện, vui chơi cùng bọn trẻ, tôi tìm cách tiếp cận với nhóm người đang ngồi làm việc trên những chiếc thuyền:

– Xin chào cả nhà ta, các bác đang làm gì thế ạ?

Một bác lớn tuổi vui vẻ cho biết:

– Chúng tôi đang xếp lưới, chuẩn bị cho chuyến ra khơi, trong đêm nay.

– Có khó không ạ?

– Quen rồi. Giống như anh chị đi chơi vậy mà.

– Nhưng hôm nay biển ở đây sóng to quá.

– Cũng có hôm biển đẹp và trong xanh đấy chứ.

– Thuyền các bác thường đi biển vào giờ nào?

– Giữa khuya, để cho kịp chuyến trở về gần sáng.

– Cậu có muốn theo chúng tôi?

– Chịu thôi, cháu tò mò muốn biết sinh hoạt trên biển, mỗi khi tàu về.

– Vậy, sáng sớm mai cậu cứ trở lại đây.

Chào tạm biệt mọi người, chúng tôi leo qua con đê, đi thêm mấy trăm mét tới điểm dịch vụ ăn uống, nghe nói vừa ngon vừa rẻ nhờ người dân tự chế biến, nấu nướng; đặc biệt, không thể quên món đặc sản “gỏi cá nhệch”.

Tôi thắc mắc hỏi Nhã:

– Con cá nhệch ra sao, em từng thấy qua nó chưa?

– Trong dân gian có câu “chim gà cá nhệch”. Ý muốn nói trong họ chim, ngon nhất là gà, còn ở loài cá là con nhệch.

– Gà ai không biết, nhưng nhệch thì anh chưa thấy bao giờ.

Để minh chứng, Nhã gọi món gỏi cá nhệch, trước là xem qua sau đó thưởng thức cho biết, nhưng rủi thay nhà hàng cáo lỗi vì người bán hôm nay không thấy giao cá tới. Không có cá, Nhã buột lòng phải diễn tả chay :

– Con nhệch giống với lươn nhưng to hơn, có da màu xanh đá, đuôi tròn, nặng vài cân đến một kí. Nhệch sống ven biển, trong các đám vẹt, muốn bắt được chúng phải có tay nghề, vì nhệch thường hung dữ, người không quen dễ bị nó dùng đuôi đâm thủng nách; ngược lại, gỏi nhệch ăn rất ngon, mùi vị đặc trưng, thịt lành, thơm, bùi, giàu chất dinh dưỡng, ít béo.

Vậy là đã rõ.

Ăn uống xong bọn tôi quay về chỗ trọ lấy xe, chạy thẳng ra quốc lộ 2 hướng về phía thị trấn Cồn cách xa 8 cây số, qua khỏi cầu gặp một ngã tư có bảng chỉ đường đi Văn Lý nằm bên phải, tôi liền rẽ theo hướng mũi tên chạy giữa phong cảnh đẹp tuyệt vời của những cánh đồng muối, khu dân cư, tháp chuông nhà thờ đẹp. Đẹp. Đẹp. Nhã kêu tôi dừng xe bên đường, bấm liên tục hàng lô ảnh, trước khi đi men theo bờ ruộng vào xem diêm dân lao động miệt mài trên cánh đồng muối. Nhân thấy một bác đang ngồi nghỉ tay, hút thuốc bên chiếc điếu cày kêu ro ro ven bờ ruộng, tôi xà tới chia sẻ về cuộc sống của diêm dân nơi đây, bác thân thiện kể:

– Công việc của chúng tôi bắt đầu từ 4-5 giờ sáng, phơi nắng cả ngày cho đến 5-6 giờ chiều, thu hoạch được vài phương muối, tính ra chẳng được bao nhiêu tiền cho nên trên nhiều cánh đồng muối ngày nay chỉ còn trơ lại có người già, phụ nữ, trẻ em làm việc, trong khi trai tráng rời bỏ quê đi làm ăn xa hoặc tìm việc khác làm kế sinh nhai.

– Làng nghề muối ở tỉnh này có nhiều không?

– Cả ba huyện ven biển Giao Thủy, Hải Hậu, Nghĩa Hưng đều có lao động tham gia nghề muối.

– Thời gian nào thuận lợi để cho ra muối nhiều nhất?

– Trời càng nắng sản lượng muối thu hoạch càng được nhiều; ngược lại, không có nắng chỉ còn biết ngồi chơi xơi nước.

– Nghề muối mỗi năm thường làm được mấy tháng?

– Khoảng 6 tháng, 6 tháng còn lại thất nghiệp, phải đi lưới cá, cào nghêu, nhặt ốc kiếm sống qua ngày.

– Khó khăn lớn quá phải không bác?

– Khó cũng phải chịu, nếu không bọn thanh niên trai tráng đâu dễ gì chịu rời quê hương đi xa làm ăn.

– Nghe nói ở gần đây còn có thắng cảnh khác cũng được nhiều người tìm tới?

– Cô cậu nên ghé khám phá quần thể các ngôi nhà thờ đổ ở xã kế bên đây thôi. Ở đó, hàng ngày có nhiều đôi thanh niên nam nữ kéo đến chụp ảnh kỷ niệm, chụp ảnh cưới đông lắm.

Sau đó, nhờ sự chỉ dẫn tận tình của bác diêm dân, tôi chở Nhã chạy theo con đê về đến Xương Điền, thuộc địa phận xã Hải Lý không chút khó khăn. Nghe kể, trước năm 1996 Xương Điền là nơi tập trung nhiều ngôi nhà thờ ở gần biển, nhưng do ảnh hưởng của sự biến đổi khí hâu, biển ngày càng lấn sâu vào đất liền đã xóa xổ một ngôi làng, đồng thời gây ra đổ vỡ cho quần thể 3 ngôi nhà thờ tuyệt đẹp, biến chúng thành phế tich mà trong chốc lát bọn tôi sẽ được chứng kiến. Lần tìm qua sách vở, tôi đọc thấy cách đây hơn 400 năm Hải Lý là bãi bồi lấp do biển Đông tạo dựng, sau một số người sống quanh đấy thấy đất đai nơi này mầu mỡ, đã tìm tới lập nghiệp ngày một đông, từ đó hình thành nên các làng nghề muối, làng chài lưới, làng tơ tằm . . . có điều, tôi không hiểu vì sao vùng biển này lại có lắm nhà thờ bề thế được xây dựng từ rất sớm?. Sau này, do có thời gian đi lại tiếp xúc với nhiều người lớn tuổi trong huyện, tôi mới được biết : “Trước đây, các nhà truyền giáo phương Tây thường sử dụng đường biển để đi đến các nơi xa xôi rao giảng đạo Thiên Chúa. Một hôm, tình cờ trên đường đi làm công việc của mình theo ý chúa, các giáo sĩ đã phát hiện ra 2 làng Ninh Cương thuộc huyện Nam Chân và Trà Lũ thuộc huyện Giao Thủy, đã tiện đường ghé lai. Từ đó về sau, người ta không chỉ thấy các nhà thờ mọc lên ở huyện Giao Thủy, Nam Chân mà lan dần ra nhiều huyện Xuân Trường, Hải Hậu, Nghĩa Hưng . . . .” và, đó cũng là lý do giải thích vì sao Nam Định được xem là thủ phủ của các nhà thờ. Điều này quả không ngoa, bởi chỉ cần đi chừng vài chục mét trên vùng biển Nam Định, người ta có thể gặp bên đường một vài ngôi nhà thờ, không chỉ cổ xưa mà còn vô cùng hoành tráng theo phong cách Gothique, Roccoco, Baroque . . . đẹp chẳng kém gì các nhà thờ ở Madrid, Barcelona hay Paris xem trên màn ảnh nhỏ(**)

Buồn, tôi và Nhã bước đi bên cảnh hoang tàn đổ nát nơi nhà thờ trái tim Giêsu, nhà thờ bà thánh Marinade, đến nhà thờ họ thánh Phêro, hy vọng tìm thấy vài mẫu vật còn sót lại bên những cột đá, nền gạch vỡ vụn, đứng trầm mặc trong cô đơn, nhưng cuối cùng cũng chẳng tìm thấy gì; ngoại trừ quá khứ nổi trội của vùng đất giàu tín ngưỡng. Bất chợt, sau chân tường đá bám đầy hàu con, Nhã phát hiện ra dáng chị phụ nữ đang lom khom đi nhặt từng con ốc, con còng, không kịp thoát thân khi thủy triều rút đi thật nhanh. Nắm lấy cơ hội này, Nhã nhanh chân bám theo chị phụ nữ bắt chuyện:

– Chào chị! Nhà mình có ở gần đây không?

Chị phụ nữ giữ thẳng người lên, một tay cầm lấy nón lá một tay chỉ về phía ngôi làng nằm trên gò đất cao xa xa, thoạt trông cứ như những món đồ chơi Lego xếp hình dành cho trẻ con:

– Ở trên chỗ cao cao kia.

– Sao phải lên tận trên ấy?

– Ngộ nhỡ nước biển lại lấn sâu vào đất liền còn có cách mà đối phó.

Nghe chị phụ nữ trả lời Nhã, tôi chợt nhớ đã được nghe kể, ở đây từng có một ngôi làng bị nhấn chìm xuống nước do biển xâm thực. Càng nghĩ tôi càng thấy ghê sợ trước sức tàn phá khủng khiếp đến từ thiên nhiên, trong khi loài người lại không ngớt hủy diệt môi trường sống từng giờ.

Để hai người tự do trò chuyện, tôi ghé mắt nhìn vào bên trong chiếc giỏ tre của chị phụ nữ, thấy đã gần đầy một giỏ nào sò nào ốc. Tôi nghĩ, có lẽ chị phụ nữ đang trên đường trở về nhà, sau khi thu hoạch khá nhiều chiến lợi phẩm. Quả đúng vậy, trước khi chào từ biệt, chị phụ nữ không quên dặn bọn tôi nên nán lại, chờ xem các thanh niên nam nữ từ các làng gần bên đổ đến đây sinh hoạt vui chơi thật náo nhiệt . Ham vui, tôi và Nhã nghe lời chị phụ nữ tìm lên ngồi trên bờ đê, nhìn thủy triều không rõ từ đâu đổ về nhấn chìm mọi thứ mới còn trông thấy đã biến mât trong dòng nước, chỉ còn thấy phần trên của bức tường, bệ đở, cột đá nhô lên trên biển nước; đồng thời, ngay khi ấy xuất hiện trên đê nhiều bạn trẻ, kẻ mang theo những cánh diều màu sắc sặc sỡ thả bay trong gió, kẻ vùng vẫy bơi lội bên những chỗ trũng quanh nhà thờ đổ thánh Marinade, thật đông vui và náo nhiệt.

Mệt. Đến lúc này tôi cảm thấy cần phải quay về thị trấn Thịnh Long, ăn uống, nghỉ ngơi, lấy sức cho ngày mai còn phải khám phá nhiều di tích trên đường trở về lại Hà Nội.

Qua đêm. Sáng hôm sau tôi đánh thức Nhã dậy thật sớm, ra đi dưới ánh trăng vừa hết mùa rằm, tiến về phía làng chài nằm ở đầu bãi tắm. Tại đây, một số chị phụ nữ ra ngồi thành từng nhóm nhỏ trên bãi cát, ngóng chờ những chiếc ghe trở về sau chuyến đi đánh bắt cá đêm.

Không phải hỏi han ai, tôi và Nhã làm theo mọi người, tìm cho mình chỗ ngồi có thể quan sát bình minh trên biển cùng các hoạt động diễn ra khi đoàn ghe đánh cá trở về.

Chẳng bao lâu sau, từ phía chân trời xa xuất hiện một chấm lửa nhỏ nổi lên trên biển, sau đó mau chóng biến thành một quả cầu son, treo lên trần mây mảng màu sắc pha trộn giữa đỏ-cam-vàng cho ra bức tranh thiên nhiên vẽ theo lối trừu tượng. Đẹp. Nhã xuýt xoa khen mãi về buổi bình minh mà cô được thấy lần đầu tiên trong đờ ở trước biển. Và, bên cạnh vẻ đẹp ngỡ ngàng đến vậy, là sự ồn ào nổi lên từ phía những chị phụ nữ, khi nhìn thấy chiếc ghe chở nặng chiến lợi phẩm thu được từ biển trở về cập bến. Lập tức, nhiều người chờ đợi từ sáng sớm, chung tay đưa những chiếc ghe lên dụng cụ đặc biệt gắn trên 2 bánh hơi, đẩy qua bãi cát về nằm nơi bến đậu. Kế đó, những chị phụ nữ chỉ việc xúm nhau phân loại từng sản phẩm, cái nào ăn để dành lại cái nào cần bán đã có người chờ thu mua tận chỗ.

Tưởng đã kết thúc các sinh hoạt ven biển vào lúc sáng sớm, tôi dắt tay Nhã định quay về tìm nơi ăn sáng, chợt bắt gặp đám đông ngư dân đang kéo lưới ven bờ. Thấy lạ, Nhã dừng chân lại, dõi theo từng động tác xem ra khá nặng nhọc nơi số đông người, cho tới khi tấm lưới được kéo lên hết bờ, thu hoạch chẳng được bao nhiêu con tôm con cá. Theo những người quen đi biển, sở dĩ người dân chọn kiểu đánh lưới như thế này, do đa phần thuộc các hộ nghèo không đủ tiền mua sắm ghe tàu, nên phải chung sức kéo lưới ở gần bờ, dù biết trước chỉ dính lưới không nhiều số tôm cá loại nhỏ; còn hơn phải đơn thân độc mã di chuyển trên những chiếc cà kheo cao hàng mét, vừa phải giữ thăng bằng vừa phải bủa lưới như cảnh “đi te” làm xiếc trên sân khấu.

Có lẽ, lần đầu tiên Nhã được chứng kiến các hoạt đông lạ mắt của ngư dân trên biển hay sao, nên cứ mãi nhìn, quên luôn cả việc ăn sáng để kịp lên đường trở về Hà Nội, ghé thăm nhiều di tích khác.

Đoán vậy, tôi buộc lòng lên tiếng nhắc nhở cô:

– Đi thôi em, mình còn phải ăn uống, kẻo không kịp giờ trở về nhà.

Phải nói khéo lắm tôi mới lôi được Nhã rời khỏi làng chài, đi về ngang qua bãi tắm mà trước đó vài giờ còn nhìn thấy mấp mé bờ nước không là nước, nay để lộ ra con đê chắn sóng, bờ kè, cùng bãi cát lui xa bờ đến hàng trăm mét, đang được đám đông thanh niên nam nữ tận dụng làm sân đá bóng, thả diều, hay chơi trò chơi xây nhà trên cát.

Thôi nhé! Chào tạm biệt biển Hải Hậu, chào tạm biệt bãi tắm Thịnh Long hoang sơ, mộc mạc, như cô gái đang vào tuổi trăng tròn, nhưng đàng sau vẻ bỡ ngỡ, e ấp mang đầy nét chân quê ấy, lại vô cùng hấp dẫn với bất kỳ ai đã một lần đặt chân đến đây vui chơi đều không muốn ra về. /.

Minh Nguyễn

(*) Bão. Tôi đã chứng kiến không it những trận bão kinh hoàng xảy ra, không chỉ ở miền Trung mà còn ở cả đồng bằng Nam Bộ, nơi được xem là năm chừng mười họa mới thấy bão. Chính vì sự tự tin ấy, đã để lại không ít sự đau buồn, mất mát; nhất là đối với người dân nghèo. Còn nhớ, trong lần xuống Kiên Giang ghé về Cà Mau thăm gia đình người bạn, trên đường đi tôi đọc báo thấy tin bão số 5 hay quốc tế là Linda gì đó, đang hướng vào miền Tây Nam Bộ. Thoạt nghe, tôi tỏ ra lo sợ trong khi dân tình có vẻ thờ ơ, nên khi cơn bão với cường độ mạnh quét qua, đã làm cho cả ngàn người mất tích, người chết, thiệt hại vật chất thống kê ước đến hơn chục ngàn tỷ đồng.

(**) Sau hiệp định Genève, một số đông người công giáo di cư từ miền Bắc Vào miền Nam, lập ra nhiều làng công giáo ở quận 8, ngã 3 Ông Tạ, Xóm Mới; đặc biệt ở Hố Nai, Gia Kiệm kéo dài lên tới Định Quán (dọc theo quốc lộ 20, đường lên Đà Lạt). Mỗi mùa Giáng Sinh có dịp đi ngang qua những nơi này , người ta bắt gặp trước các ban-công nhà thờ, giáo dân trang trí những máng cỏ, hang đá, hình Chú Jésu . . . rất lạ và đẹp mắt.

Nguồn: Tác giả gửi

Đã đóng bình luận.