Trang Luân
(Trước hết, tôi xin gửi đến bác sĩ Nguyễn duy Cung lời cảm ơn chân thành và sâu xa nhất, về những tình cảm đặc biệt mà bác sĩ đã dành riêng cho tôi qua tập hồi ký này.)
Thú thật, tôi không dấu được sự cảm động! Cảm động! Kể từ khi bác sĩ Cổn trao cho tôi cuốn hồi ký “Đời y sĩ trong cuộc chiến tương tàn” của bác sĩ Nguyễn duy Cung, cùng dòng chữ thật trang trọng, mà tác giả đã đề tặng cho tôi ở trong đó. Tôi ngạc nhiên, quay sang hỏi: “Tác giả là ai vậy, hở anh! Anh nhỏ nhẹ, chậm rãi: “Chắc anh quên rồi thì phải! Anh cố nhớ lại đi! Cách đây vào khoảng gần hai tháng, tại hội trường của nhật báo Viễn Đông. Hôm đó, nhóm anh em chúng tôi, có tổ chức buổi ra mắt, để giới thiệu về tác phẩm “Chiến Tranh Đông Dương lần thứ 3” của nhà văn Hoàng Dung. Trong khi chờ đợi, tôi có nói với anh, về vị đàn anh trong giới Quân Y của chúng tôi. Ông là biểu tượng cho mẫu người hiền lành, khả kính. Một bác sĩ đầy nhiệt huyết. Một thầy thuốc tiêu biểu cho đức tính quên mình, cứu người. Vị bác sĩ mà lúc nào cũng đặt mình vào khuôn khổ của bốn chữ bổn phận và trách nhiệm. Đối với ông, nhiệm vụ là trên hết! Vì thế, ông không hổ thẹn với câu châm ngôn “lương y như từ mẫu. ” Vị đàn anh mà tôi vừa đề cập đến, không ai khác hơn, chính là tác giả của tập hồi ký này.
Ngay buổi chiều hôm ấy, mặc dù đã lớn tuổi! Đi, đứng lại khó khăn, nhưng cả ông bà đều có mặt, tham dự trong suốt từ đầu cho đến cuối. Bà cứ khen: Các anh tổ chức sao mà khéo quá! Đông, mà lại còn ngăn nắp, thứ tự, đâu vào đấy hẳn hòi! Nhất là vào thời buổi này, tình trạng suy thoái càng ngày càng trở nên u ám, chẳng riêng gì HyLạp, Pháp, hoặc số quốc gia khác, mà ngay đến Hoa Kỳ cũng phải trực diện, đối mặt với bài toán nan giải, hóc búa về kinh tế! Ấy thế mà các anh còn tổ chức được như vậy, thì quả thật, đâu có phải ai ai cũng có thể làm được! Điều mà tôi muốn nói, chính là sự giao tế rộng rãi của tất cả mọi người nằm trong ban tổ chức. Uy tín, cùng tài ngoại giao khéo léo, nên mới gặt hái được cái kết quả mỹ mãn, rực rỡ như ngày hôm nay. Tiện đây, tôi cũng chẳng nói dấu gì anh! Trong suốt thời gian vừa qua, nhà tôi cứ cặm cụi, chăm bón, tô điểm cho một đứa con riêng của ông! Đứa con riêng ấy, chính là tập hồi ký mà ông đã ấp ủ, thai nghén từ lâu! Nó chẳng khác nào như chiếc máy computer, mà ông muốn gửi gấm ở trong đó, từng giai đoạn, từng mấu chốt, cho đến mọi biến chuyển nóng bỏng, sôi sục của lịch sử mà ông đã miệt mài, rong ruổi ở trên đấy, trong suốt cả chặng đường dài quanh co, mịt mù ở quá khứ. Biết bao nhiêu là thăng trầm! Bao nhiêu cuộc bể dâu! Bao nhiêu nỗi xót xa, ngậm ngùi, cay đắng, đều được ông tô đậm, gói ghém, đóng khung, sắp xếp theo thứ tự của thời gian. Tính cho đến ngày hôm nay, thì mọi công việc lặt vặt, in, ấn, kể như đã hoàn tất, xong xuôi đâu vào đấy! Tiếp đến, là giai đoạn kết cuộc. Giai đoạn chuẩn bị cho ra mắt. Giai đoạn này, có thể nói là giai đoạn gay go và phức tạp nhất. Ông nhà tôi dự trù sẽ trình làng vào buổi sáng đẹp trời rất gần đây thôi! Chắc chắn, nó sẽ rơi vào ngày thứ bảy hoặc chủ nhật! Chỉ có thứ bảy hoặc chủ nhật thì mới tiện lợi cho tất cà mọi người sống trên đất Mỹ này. Ông nhà tôi muốn tổ chức buổi ra mắt vào tháng chín tới đây. Ông ấy cứ bảo: Tháng chín là tháng đẹp nhất. Tháng mà ai nấy cũng đều cảm thấy xôn xao trước ngưỡng cửa mùa Thu. Cho dù có tổ chức vào bất cứ tháng nào đi chăng nữa thì cũng đều phải nhờ đến sự trợ giúp tiếp tay của mấy anh! Nếu không có mấy anh nhúng tay vào thì mọi việc khó mà có thể trôi chảy, thành tựu được! Đấy, Anh cũng thấy! Ông nhà tôi nay cũng lớn tuổi lắm rồi! Sức thì kể như đã cạn! Đi đứng, xoay sở đâu có còn dễ dàng như ngày xưa! Đúng là tuổi già có khác! Vì thế, chúng tôi chỉ biết trông cậy, nhờ vả vào nơi anh! Tôi mong anh nhận lời cho nhà tôi vui! Có anh đứng ra tổ chức thì còn gì cho bằng! Ông nhà tôi quí anh lắm, vẫn thường hay nhắc đến anh luôn! Tôi cứ lo canh cánh là không biết anh có nhận lời, hay là không! Ngộ nhỡ mà anh không nhận lời thì tôi chẳng biết tính sao! Trước khi lại đây, ông còn dặn đi dặn lại, nhớ là đừng quên nói với anh về chuyện này! ”
“Dĩ nhiên là tôi phải nhận lời cho phải đạo! Không có lý nào mà tôi từ chối được! Dẫu sao thì ông cùng là đàn anh của tôi! Tôi có nói với bà: “Chị nói như thế, thì làm sao mà tôi từ chối cho đành! Chuyện đó thì chị cứ yên tâm! Chị đừng có lo lắng, suy nghĩ gì cả!” “Cách đây hai hôm, tôi có lại thăm. Ông kéo tôi lại gần, kề tai tôi nói nhỏ: “Hôm nay, sách đã in xong! Tiện đây, tôi gửi anh vài cuốn để anh tặng riêng cho bạn bè và thân hữu. ” “Tôi có nói với ông, sơ qua về anh! Ông vui vẻ, liền lấy bút ra, nắn nót, đề tặng cho anh anh cuốn sách này.”
Lắng đọng trong giây lát. Dăm phút sau, tôi mới khe khẽ lên tiếng: “Anh cho tôi gửi lời hỏi thăm sức khỏe ông bà và thành thật cảm ơn ông rất nhiều. ”
Bác sĩ Cổn là chỗ quen biết với tôi. Nói tới ông thì người ta phải liên tưởng ngay đến hai chữ Hoàng Hạc, đến ban nhạc Starsband. Bởi vì dễ hiểu, ông là người cha đẻ, là linh hồn của môn thể dục khí công mang tên Hoàng Hạc, mà cũng là con chim đầu đàn của ban nhạc nói trên. Ông không những là bác sĩ mà còn là nhạc sĩ, là võ sư, là chưởng môn kế thừa của môn phái Thiếu Lâm Thất Sơn. Ông là người đa tài, là hiện tượng hiếm có mà lần đầu tiên tôi mới hân hạnh được gặp! Ông chẳng phải là một nhân vật tiếng tăm, nằm trong guồng máy lãnh đạo của cộng đồng nhưng hầu hết, bất cứ đoàn thể nào, cũng đều biết đến tên ông, qua những công việc bất vụ lợi mà ông đã làm kể từ trước tới nay.
Ngày nào mà ông chẳng có mặt ở cà phê Factory! Ông đến để chuyện vãn! Để thăm bạn bè! Để thưởng thức ly cà phê đầu ngày còn nóng hổi, bốc khói. Ông là người từng trải! Người có máu nghệ sĩ! Óc khôi hài và lúc nào cũng tỏ ra hòa đồng, cởi mở, vui vẻ với tất cả mọi người ở chung quanh. Ông thường hay nói đùa với bạn bè: “Factory là phòng mạch thường trực của tôi! Vì thế, ngày nào ông cũng có mặt ở tại nơi đây, để “chẩn bệnh”, để theo dõi, đồng thời áp dụng bất cứ phương pháp nào hữu hiệu nhất để “chữa trị”cho các bệnh nhân! Những bệnh nhân đang bước vào thời kỳ khủng hoảng, rối loạn về tâm lý. Chứng bệnh trầm kha, ngặt nghèo của thời đại. Theo ông, căn bệnh oái oăm đó, khó có thể một sớm một chiều mà có thể trị dứt được! Nó đòi hỏi ở người bệnh, phải có quyết tâm, tính nhẫn nại, đồng thời phải chuẩn bị về mặt tâm lý để bước vào cuộc chữa trị lâu dài. ”
Kể từ khi biết ông, chủ nhật nào tôi cũng ra đấy! Ra đấy để tán gẫu! Để chuyện trò! Để xoa dịu được phần nào nỗi căng thẳng, dằn vặt trong cuộc sống. Kể từ đó, Factory trở thành tọa độ quen thuộc đối với tôi. Tọa độ ấy nằm ngay trên trục tung độ của Brookhurst và hoành độ của Mc Fadden.
Có nhiều người cho rằng: Factory là tiệm cà phê khá đông khách ở quận Cam. Nhận xét ấy rất đúng! Tiệm cà phê qui tụ nhiều thành phần ở trong đó! Già, cũng có! Trẻ, cũng có! Nhưng phần lớn là nhân viên, quân, cán, chính của chế độ VNCH trước đây! Họ đến để tâm sự! Để hàn huyên! Để điểm danh lại hàng ngũ bạn bè, ai còn, ai mất! Qua khói thuốc, họ mơ màng nhìn về quê hương nghìn trùng diệu vợi, với nỗi xót xa dằn vặt tê tái ở trong lòng. Ôn lại mọi kỷ niệm, về một thời tuổi trẻ vẫy vùng ở quá khứ! Về thân phận! Về chiến tranh! Về những mất mát, ra đi trong cuộc chiến tàn bạo, khốc liệt vừa qua. Nỗi chua chát, tủi nhục về thân phận của người lính bại trận! Về người tù thì đúng hơn! Người tù không bản án! Người tù khổ sai chung thân, với nỗi ray rứt, chán trường dày vò, chồng chất, thai nghén lên cuộc sống. . .
oOo
Sách dày bốn trăm trang, bìa láng, lần đầu tiên xuất bản ở hải ngoại. In tại nhà in 5 Star Printing, nằm ngay trên đường Trask thuộc thành phố Garden Grove. Cuốn sách được chia ra thành nhiều chương khác nhau. Mỗi chương là một giai đoạn, một vị trí đơn vị mà tác giả đã trải qua ở dĩ vãng. Với lối trình bầy giản dị, xúc tích và trang nhã. Số hình ảnh về gia đình, cùng nhiều họa phẩm độc đáo, đặc biệt sơn dầu, đã tạo nên những đường nét bay bướm, linh động, phong phú cho cuốn sách này. Tôi dán cặp mắt vào tấm hình nhỏ nhắn, xinh xắn ở trước mặt. Tấm hình gợi cho tôi liên tưởng đến chuỗi ngày tháng nhọc nhằn, gian truân, lặn lội của đời lính nay đây, mai đó! Tấm hình đang diễn ra cuộc hành quân tảo thanh, truy kích địch, với sự phối hợp chặt chẽ của hai lực lượng Bộ Binh và Thiết Giáp, cùng sự yểm trợ hỏa lực dồi dào từ trên không. Tấm hình ấy đã phản ảnh trung thực, rõ nét về cuộc chiến tranh tàn khốc, đẫm máu trên quê hương Việt Nam trước kia! Nó lột tả hết được đầy đủ mọi ý nghĩa cốt tủy, sâu sắc mà tác giả muốn gửi gấm trong thiên hồi ký này. Mở đầu, là lời giới thiệu của vị Y Sĩ Nhảy Dù Vĩnh Chánh. Bằng những từ ngữ thật trang trọng, thật bóng bẩy, ông viết: “Chức năng và dấn thân của người Y Sĩ trong cuộc chiến tương tàn là những thiên hùng ca gắn kết với lịch sử ly loạn của miền Nam Việt Nam” (trang 1)
Đức tính trong sạch, quả cảm, cần mẫn của tác giả, đã nêu lên tấm gương sáng, để từ đó người y sĩ trẻ tuổi thuộc thế hệ sau ông, đã tỏ ra ngưỡng mộ và hãnh diện về người đàn anh đi trước, qua mấy dòng nhận định, tóm lược dưới đây: “Là một Y Sĩ Tiền Tuyến thế hệ trẻ, tôi tìm thấy giá trị tinh thần đáng đề cao của bậc đàn anh, bác sĩ Nguyễn Duy Cung, đã phản ảnh đầy đủ tấm gương Y Đạo của một Quân Y Sĩ. Với những ghi nhận quí giá nêu trên, tôi xin chia xẻ và chân trọng giới thiệu đến độc giả thiên hồi ký ĐỜI Y SĨ TRONG CUỘC CHIẾN TƯƠNG TÀN. ”(trang…1)
Ngay trong phần lời tựa, bằng những từ ngữ nhẹ nhàng, bình dị, tác giả đã đưa người đọc trôi dạt về quê hương Đồng Tháp của ông! Quê hương chằng chịt của sông ngòi! Của những cánh đồng lúa bạt ngàn, chạy dài thẳng tắp. Của vùng đất phì nhiêu, cò bay thẳng cánh! Vùng đất được mệnh danh là vựa lúa, là tim mạch, là yết hầu của miền Nam. Ông sinh ra và cất tiếng khóc đầu tiên chào đời ngay tại vùng đấy ấy. Ông sống với chuỗi ngày tháng êm ả của tuổi thơ, dưới mái trường tiểu học Montaigne tại Sa Đéc. Chuỗi ngày tháng đẹp đẽ và thơ mộng dưới ánh nắng chan hòa, ấm áp của thuở thanh bình.
Năm 1945, qua những biến chuyển trọng đại của lịch sử đất nước. Quân đội Pháp bám gót theo bước chân Đồng Minh, vào Việt Nam để giải giới quân Nhật. Trong thời kỳ này, đảng CS còn đang hoạt động, ẩn mình trong bóng tối. Dưới danh nghĩa Việt Minh, họ hô hào đồng bào, hãy đồng loạt, nhất tề đứng lên, để hưởng ứng, phát động cho phong trào: Toàn dân kháng chiến chống Pháp. Đứng trước tình hình an ninh mỗi ngày cứ xấu đi tại quê nhà, gia đình ông quyết định tản cư lên Sài Gòn để sinh sống. Thời gian này, ông nộp đơn thi tuyển vào trường Trung Học Petrus Ký. Qua những năm tháng cặm cụi với đèn sách, ông trúng tuyển kỳ thi tú tài I Pháp. Sau đó, ông tiếp tục xin vào trường Chasseloup Laubat. Vì hoàn cảnh eo hẹp, ông quyết định ghi danh học thêm về hàng hải. Năm 1952, ông tốt nghiệp với ba văn bằng, Tú Tài II Pháp, bằng Sĩ Quan Cận Dương và Viễn Dương Thuyền Trưởng của Việt Nam Hàng Hải lúc bấy giờ. Từ đó, ông nghỉ học, bắt tay đi vào công việc lái tàu, nay đây, mai đó, vui vầy với sông nước và biển cả. Năm 1955, ông giã từ biển cả, quyết định trở lại bảng đen cùng lớp học. Ông ghi danh vào Đại Học KhoaHọc Sài Gòn. Tốt nghiệp với chứng chỉ Lý Hóa Sinh PCB, ông tiếp tục ghi danh vào Đại HọcY Khoa Sài Gòn. Tốt nghiệp với văn bằngY Khoa Bác Sĩ Quốc Gia với luận án tiến sĩ Contribution à I Etude du Cancer Ano Rectal au Sud VN, ông được Hội Đồng Y Khoa xếp vào hạng Tối Ưu và được đề nghị một giải thưởng về luận án vào năm 1964.
Sáu năm sau, kể từ khi hiệp định Genève được ký kết vào năm 1954. Ánh nắng hòa bình từ từ bị đẩy lui vào bóng tối cô tịch. Nhân dân miền Nam đang chuẩn bị đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của miền Bắc. Cuộc chiến tranh còn được dán cho một cái nhãn hiệu sắc bén khác, đó là cuộc chiến tranh ý thức hệ. Vì nhu cầu chiến trường đòi hỏi, khóa 7 QY hiện dịch, được lệnh khẩn cấp trình diện Nha QY để bổ sung cho các đơn vị chiến đấu ngoài tiền tuyến. Tác giả được lệnh thuyên chuyển về SĐ 22 BB, hiện đang đồn trú tại thành phố KonTum. Một tỉnh lỵ đèo heo, hút gió, nằm cheo leo trên miền rừng núi Cao Nguyên Trung Phần. Với tấm phù hiệu “Hắc Tam Sơn Bạch Nhị Hà, ” sư đoàn được đặt dưới quyền chỉ huy của Tr/Tá Nguyễn Bảo Trị. Vị sĩ quan cao cấp đầy bản lãnh, giàu kinh nghiệm, chẳng những về tham mưu, mà còn dày dạn cả về mặt chiến trường. Ông được chỉ định về phục vụ tại ĐĐ 22 QY. Đây là đơn vị đầu tiên của đời ông trong quân ngũ. Đơn vị đã mở ra cho ông một cuộc hành trình mới. Cuộc hành trình đi vào với khói lửa chiến tranh, với trận địa, với mọi trọng trách nặng nề, đầy gian nan, thử thách, đang chờ đón ông ở trước mặt.
Trận chiến đầu tiên đến với ông vào năm1960. Năm khởi đầu cuộc chiến tranh xâm lược, thôn tính miền Nam. Theo tin tình báo cho biết, địch quân đang khai triển kế hoạch, để chuẩn bị tấn công tỉnh lỵ KonTum vào đúng ngay dịp lễ Quốc Khánh (26/10). Mục đích, là muốn san bằng cái bản doanh của BTL/SĐ 22 BB đang hiện diện ở nơi đây, đồng thời địch muốn gây tiếng vang lớn ở trong nước nói riêng, cũng như cho toàn thể thế giới biết đến nói chung! Biết trước được ý định táo bạo thâm độc đó, BTL/SĐ 22 BB ráo riết gia tăng những biện pháp phòng thủ, đồng thời áp dụng mọi kế hoạch thích nghi để chuẩn bị đối phó. Nhận thấy âm mưu bị bại lộ, địch liền chuyển hướng, chĩa mũi dùi, tiến thẳng vào số tiền đồn dọc theo biên giới. Với lối đánh ồ ạt, phủ đầu, địch mở những cuộc tấn kích chớp nhoáng vào các đồn bót Mang Khieng, Mang Buk, Toumerong, Dakha, Dkrotah. Trong trận đánh này, tác giả được chỉ định chức vụ, Xử Lý Thường Vụ ĐĐ 22 QY, tạm thời thay thế cho Y Sĩ ĐĐT, hiện đang bận rộn với công tác tại Quân Đoàn II ở Pleiku.
Công việc cấp thiết, là phải chuẩn bị thuốc men. Xe cứu thương, đồng thời tuyển chọn binh sĩ để tham dự cuộc hành quân giải tỏa. Băng qua cầu Dakbla, đoàn xe di chuyển qua DakTo, Daksut, Dakbet rồi đến bờ sông Dak Poko. Bên kia, ngọn đồi Dakrotah đứng sừng sững, uy nghi, chẳng khác nào như con quái vật. Ngọn đồi đang bị địch chiếm giữ. Ngọn đồi mà trên đó, hiện giờ, có biết bao nhiêu họng súng đen ngòm đang chuẩn bị để chờ khai hỏa. Có tiếng súng chạm địch vang lên ở trên đó. Tiếng lựu đạn chát chúa nổ tung. Tiếng liên thanh nổ rền ròn rã hòa trộn với tiếng la thất thanh của người lính bị trúng đạn. Ông đã đến với họ! Săn sóc cho họ! Băng bó từng vết thương hiểm nghèo, rướm máu! Tận tụy, đem hết mọi khả năng về chuyên môn, để cứu họ giữa giây phút thập tử nhất sinh ngoài mặt trận. Chúng ta hãy nghe tác giả bộc lộ tâm tình của chính ông qua đoạn văn sau đây: “Vì bổn phận và trách nhiệm thiêng liêng, cứu nhân của người thày thuốc, mỗi ngày nên cố gắng làm những điều tốt nhất cho đời, và bình thản chấp nhận những gì không may xảy đến cho mình mà không thở than hay luyến tiếc. ” (trang…20) Giữa không khí âm u, tĩnh lặng của núi rừng, ông suy nghiệm về hai chữ chiến tranh. Chiến tranh là gì! Là hành động chém giết giữa người với người, bắt nguồn từ những mâu thuẫn, những hận thù, nằm giữa hai phe phái, hoặc hai chế độ khác nhau. Chiến tranh chỉ gây ra biết bao nhiêu cảnh đổ nát, tương tàn! Chỉ đem lại những hậu quả tai hại, tang thương cho đất nước. Nghĩ đến đấy, tự nhiên tác giả cảm thấy bồi hồi, rồi tự hỏi với chính mình: “Bao giờ mới chấm dứt chiến tranh! Bao giờ người dân hiền lành không còn chịu cảnh bom đạn điêu tàn đang xảy ra từng ngày trên quê hương mình! Bao giờ những người lính được giã từ vũ khí để trở về sống bình yên bên mái ấm gia đình mà lâu nay họ thiếu thốn. ”(trang…21)
Đối với đời sống quân ngũ, tác giả đã nhận chân ra được cái ý nghĩa cao quí của hai chữ đồng đội. Đấy là thứ tình cảm thiêng liêng nhất, quyện xoắn chặt lại với nhau, giữa những người lính đang miệt mài, xông pha ngoài trận tuyến.
Có một điều, mà tác giả vẫn thường hay thắc mắc, không hiểu vì nguyên nhân, hoặc động lực nào, đã khiến cho vị ĐĐT có những ác cảm, đố kỵ, rồi nẩy sinh ra thù oán, ghen ghét nhắm thẳng vào cá nhân ông! Chính người đàn anh hẹp hòi này, đã trực tiếp đề nghị với cấp trên, cho ông thuyên chuyển về đơn vị xa xôi, hẻo lánh khác. Tác giả tình nguyện lên phục vụ tại Tr/Đ 40 BB, với chức vụ Y Sĩ Trưởng. Trung Đoàn này hiện đang đồn trú tại thị trấn Tân Cảnh. Một thị trấn nhỏ bé, buồn thiu, nằm sát nách với quận lỵ DakTo. Từ KonTum muốn lên đấy, phải trải qua chặng đường rừng dài 50 cây số về hướng Bắc, đầy gian nan, hiểm hóc. Thị trấn mà chung quanh, chỉ thấy toàn là rừng núi mịt mù, âm u, trùng điệp! Vùng đèo heo, hút gió! Cho dù có buồn tẻ đến thế nào đi chăng nữa, nhưng lúc nào, tác giả cũng cảm thấy nhẹ nhõm, bình thản, an tâm với hiện tại và luôn luôn tâm niệm: “Dù ở vị thế nào thì người thầy thuốc cũng phải có trách nhiệm với tha nhân, đem kiến thức và khả năng của mình để giúp đỡ người khác, nhìn vào vết thương của người bệnh mà chữa, chứ không nhìn vào cái áo họ đang mặc để đánh giá thấp cao hay phân biệt đối xử. Dù đi bất cứ nơi nào trong đất nước mình, có cơ hội để chăm lo sức khỏe cho bất cứ người nào cần, tạo dựng sức sống an lành cho đồng bào xung quanh là tôi cho rằng mình đã đạt được mục đích sống có ý nghĩa rồi. ”(trang. . 30)
Nghĩ vậy nên tôi thấy lòng mình thanh thản, nhẹ nhàng, khi rời đơn vị cũ để bắt tay vào đơn vị mới hăng hái làm việc không bận lòng chi nữa! ”
Dakha là tên của một địa danh! Là ngôi làng nằm sát với biên giới của quận lỵ Dakto. Trên bản đồ quân sự, người ta chỉ thấy, toàn là những vòng cao độ chằng chịt. cùng màu xanh của lá cây, xen lẫn với màu đỏ thẫm in hằn ở trên đó. Nơi đấy, đang xảy ra trận đụng độ đẫm máu, giữa lực lượng chính quy với Tiểu Đoàn 3 thuộc Tr/Đ 40. Trong khi tiểu đoàn đang di chuyển từ độ cao xuống triền dốc, thì đột nhiên, bất thần bị phục kích từ hai phía, khiến cho ta bị tổn thất nặng nề (45 binh sĩ bị tử thương và 50 người khác bị thương). Nghe tin sét đánh ngang tai, tác giả bất chấp mọi nguy hiểm, ông cùng với hai nhân viên lành nghề, tức tốc lên đường, đem theo đầy đủ thuốc men, cùng dụng cụ cấp cứu cần thiết. Vừa vượt qua Tân Cảnh, ông liền gặp ngay đoàn xe của TL/SĐ mới từ mặt trận trở về! Tr/Tá Trị tỏ vẻ ái ngại, trước tình hình đang còn sôi động, diễn ra quyết liệt ở trên đấy. Hơn nữa, trời bắt đầu nhá nhem tối, nên ông đề nghị, tác giả hãy quay lại, chờ hộ tống rồi hãy đi! Nhưng ông đã khẳng khái trình bầy: “Nếu ra được mặt trận sớm, may mắn còn có thể giúp những thương binh bị kích xúc, tránh được trường hợp phải cưa tay, cưa chân vì biến chứng trầm trọng do mất máu quá lâu hay bị nhiễm trùng, tôi xin được đi tiếp tục. ” (trích trang…39)
Đứng trước tình hình chiến sự càng ngày càng trở nên nghiêm trọng. Vì thế, đơn vị thường xuyên mở những cuộc hành quân tảo thanh, tìm và tiêu diệt địch. Qua các trận đụng độ với địch quân, thượng cấp đã nhìn thấy ở nơi ông, đức tính quả cảm, cùng tình thương lênh láng mà ông đã trải ra cho các thương bệnh binh ngoài mặt trận. Nhờ đó, ông được đặc cách, thăng cấp y sĩ đại úy sớm hơn, so với những đồng nghiệp đồng trang lứa với ông.
Sau thời gian phục vụ tại Trung Đoàn 40, ông được lệnh về trình diện BTL/SĐ, để bàn giao chức vụ ĐĐT/ ĐĐ 22 QY.
Trong khi đang tham dự cuộc hành quân bình định với sư đoàn, ông được lệnh từ Nha QY, về trình diện TYV CộngHòa, để chuẩn bị lên đường theo học khóa Gây Mê Hồi Sức tại bệnh viện Letterman ở Hoa Kỳ. Theo tác giả, đây là dấu ngoặc trọng đại nhất, đã mở ra trong cuộc đời y sĩ của ông.
Giã từ KonTum trên chuyến bay quân sự vào buổi sáng mù sương. Qua cửa kính, ông cố tìm trong lớp sương mù dày đặc ấy, một vài hình ảnh thân quen, cùng vô số kỷ niệm vui buồn mà ông đã để lại ở tại nơi đấy.
Đặt chân xuống phi trường Travis AFB trên chuyến bay quânsự của Không Lực Hoa Kỳ. Letterman hiện ra, nằm gọn trong khu quân sự Presideo. Đây là TYV có tầm vóc, với nhiệm vụ tiếp nhận thương bệnh binh từ chiến trường Thái Bình Dương và Đông Nam Á Châu. Trong trận chiến Triều Tiên và Việt Nam, các tù binh Hoa Kỳ, sau khi được thả ra, đều được đưa đến đây, để điều dưỡng, trước khi được đưa về xum họp với gia đình. Tổng Y Viện này được mang tên của vị b/s Jonathan Letterman. Ông là Th/Tá QY trong Quân Đội Hoa Kỳ. Là b/s chuyên khoa về giải phẫu, ông từng tham gia trong trận nội chiến 1862. Ông qua đời vào năm 1872, hưởng dương 48 tuổi.
Ngày nào, tác giả cũng phải đến khu Gây Mê để tham dự lớp học. Khu này nằm ngay trong diện tích của TYV Letterman, do vị Y Sĩ Đ/Tá QY chỉ huy. Dưới quyền ông, có 3 Y Sĩ phụ tá với cấp bậc Th/Tá. Ngoài ra, còn số Nữ Quân Nhân mang cấp bậc Đ/Úy.
Suốt thời gian theo học ở nơi đây, tác giả được b/s Mitchell gốc người miền Nam tận tình giúp đỡ và hướng dẫn cặn kẽ. Chẳng những thế, ông còn tặng riêng cho tác giả, hầu hết số sách vở mà ông đã dùng trước đây. Có lẽ, nhờ vào nguồn tài liệu phong phú kể trên, sau khi hoàn tất luận án tiến sĩ (ngày 24/12/1964), dày hơn 300 trang và được viết bằng Pháp ngữ. Ông được HĐYK Sài Gòn xếp vào hạng “Tối Ưu” đồng thời đề nghị, cấp cho ông giải thưởng về luận án xuất sắc này.
Ngoài công việc học hành, tác giả còn dành thời giờ đi thăm số danh lam thắng cảnh của nước Mỹ. Chiêm nghiệm về cây cầu Golden Gate. Cây cầu treo là một trong những kỳ quan của thế giới, là biểu tượng của thành phố San Francisco. Thăm phố Tàu cùng sở thú. Thăm viện Khoa Học, cùng Bảo Tàng Viện Lịch Sử tại California. Viếng thành phố Santa Cruz, Carmel, Louis Opispo, Ventura. Khu giải trí Disneyland. Thăm phim trường nổi tiếng Hồ Ly Vọng ở Los Angeles.
Mãn khóa học, ông giã từ nước Mỹ trong nỗi bùi ngùi, luyến tiếc. Tác giả thầm cảm ơn người thày khả kính Mitchell, cùng rất nhiều người bạn khác, đã dành cho ông những tình cảm sâu đậm, trong suốt thời gian ông lưu lại ở tại nơi đây.
Đặt chân xuống Sài Gòn vào buổi trưa đầy nắng gắt. Không khí Sải Gòn vẫn ồn ào, náo nhiệt như ngày nào. Ông được Nha QuânY cấp sự vụ lệnh thuyên chuyển về TYV Duy Tân tại Đà Nẵng, phụ trách đặc biệt về Gây Mê. Ở đây, tác giả gặp toàn những khuôn mặt khả ái. Những đồng nghiệp thân quen và nhiệt tình. Trong ký ức, ông vẫn còn nhớ vanh vách từng người một: Th/Tá Nguyễn văn Thọ (Y Sĩ Trưởng). Tr/Úy Trương minh Tiến (Trưởng Khoa Ngoại). Tr/Úy Trần phước Thọ. Tr/Úy Tăng triệt Phú. Tr/Úy Âu nhật Chương. Tr/Úy Tôn thất Cần, trưởng khoa sản.
Vì nhu cầu công vụ, vào giữa năm 1964, b/s Trương minhTiến được lệnh thuyên chuyển về Sai Gòn, thể theo lời yêu cầu của Thủ Tướng Trần văn Hương. Tác giả được bỏ nhiệm vào chức vụ Trưởng Khoa Ngoại Chẩn, thay thế cho b/s Tiến. Thời gian này, thỉnh thoảng tác giả được mời ra bệnh viện dân y, phụ giúp với b/s Đinh văn Tùng trong những ca mổ thịt dư cho các trẻ em ở trong vùng. Có điểm nổi bật nhất, thể hiện trong cuốn sách này, là tác giả vẫn còn nhớ đến những quân y sĩ đã ngã xuống, ra đi trong cuộc chiến tranh vừa qua. B/sĩ Đoàn mạnh Hoạch (Liên Đoàn Cơ Giới nặng). B/sĩ Đỗ Vinh (Y Sĩ Trưởng TĐ5ND). B/sĩ Lê hữu Sanh (Y Sĩ Trưởng TĐ 5 TQLC).
Giữa lúc mọi việc đang diễn ra trôi chảy, thì đột nhiên, có sự thay đổi trong chuyến viếng thăm của phái đoàn Đ/Tá Vương quang Trường, Tổng Trưởng Y Tế kiêm Giám Đốc Nha QY thời bấy giờ. Trước khi lên đường về Sai Gòn, Đ/Tá Giám Đốc liền bổ nhiệm tác giả vào chức vụ Y Sĩ Trưởng QYV Nguyễn tri Phương, tọa lạc ngay trong thành Mang Cá, thuộc Thành Nội Huế. Tác giả chưa kịp lên đường ra Huế, thì đột ngột có tin, b/sĩ TNT thuộc ĐĐ Lựa Thương, đã được Tr/Tướng NCT (TL/QĐI & V/I/CT) thăng cấp th/tá giả định, đồng thời chỉ định đương sự vào chức vụ Y Sĩ Trưởng tại bệnh viện này. Sự bổ nhiệm nói trên, hoàn toàn trái ngược, không đúng với nguyên tắc căn bản về hành chánh của các đơn vị chuyên môn. Nghe đâu, có nhiều nguồn tin cho rằng, đây là sự trả đũa của ông tướng tư lệnh, đối với Đ/Tá Trường về câu chuyện ân oán trước kia. Đứng trước sự việc trớ trêu, trái nghịch đó, Nha QY đành phải đình chỉ lệnh bổ nhiệm, và sau đó, tác giả được lệnh cấp tốc lên đường đi Phan Thiết, để thành lập QYV Đoàn mạnh Hoạch. Có thể nói, nhiệm vụ này hết sức là gay go và khó khăn. Với 12 dãy nhà tôn, dự trù cho 400 giường bệnh. Tình trạng quân số thì thiếu thốn. Dụng cụ y khoa lại nghèo nàn. Hơn nữa, tình hình an ninh, không lấy gì gọi là sáng sủa, khả quan cho lắm. Nhưng! Với ý chí cương quyết! Với tinh thần trách nhiệm, đã giúp ông vượt qua mọi gian nan, thử thách, đồng thời đưa bệnh viện bước vào giai đoạn hoạt động hữu hiệu, ngang hàng với những nơi khác.
Năm 1966, qua sự đề bạt của B/sĩ Cao xuân An, tác giả nạp đơn ứng cử vào Quốc Hội Lập Hiến của nền Đệ II CH. Mục đích là để tiếp tay với các đồng viện có khả năng, có tâm huyết, để soạn thảo ra bản Hiến Pháp chung, đáp ứng đúng với những nguyện vọng thiếtt ha của toàn dân. Cho đến nay, trên xứ người, dù đã mấy chục năm trôi qua, tác giả vẫn giữ nguyên được cái mối giao hảo thân thiết như ngày nào. Như G/s Nguyễn văn Sâm. G/s Ngô thanh Tùng, T/p Phạm đình Hưng, B/s Vũ Ban.
Mậu Thân năm 1968. MùaXuân của khói lửa, của tang tóc. Của giải khăn sô cho Huế. Cho Sài Gòn, cũng như biết bao nhiêu thành phố khác tại miền Nam. Khi phát súng lệnh được bắn ra, địch ào ạt tấn công vào hầu hết các tỉnh trên toàn lãnh thổ của miền Nam. Nhưng cuối cùng, địch đã chuốc lấy sự thảm bại chua cay trong cuộc tổng công kích này, trước ý chí sắt đá cùng tinh thần chiến đấu quả cảm của QL VNCH. Trong giai đoạn nói trên, tác giả vừa mới chấm dứt nhiệm kỳ tại Quốc Hội Lập Hiến. Để đáp ứng lời kêu gọi của Tổng/Tr Y Tế Trần Lữ Y, ông chạy thẳng vào bệnh viện Chợ Rẫy, tiếp tay với các đồng nghiệp, trong công việc giải phẫu và săn sóc cho những đồng bào.
Sau biến cố Mậu Thân, tác giả được bổ nhiệm vào chức vụ, Trưởng Ty Y Tế kiêm Giám Đốc Bệnh Viện Phước Long. Đây là một tỉnh lỵ khỉ ho, cò gáy, nằm cách xa Sài Gòn vào khoảng 120 km. Ở đấy, còn có cái tên gọi là vùng Tây Bá Lợi Á. Là nơi mà tình hình an ninh không lấy gì gọi là khả quan cho lắm. Thỉnh thoảng, địch vẫn thường hay pháo kích bừa bãi vào tỉnh lỵ. Công việc đầu tiên đến với ông, là phải chỉnh trang lại bệnh viện. Thiết lập hệ thống chống pháo kích. Ngoài ra, tác giả còn mở các đợt công tác Dân Sự Vụ, xuống tận hai chi khu Bù Đăng, Bù Đốp, phối hợp với những nhân viên y tế, để săn sóc, khám bệnh và phát thuốc cho đồng bào ở nơi đó.
Với tiêu chuẩn, trên 5 năm kinh nghiệm về giải phẫu tổng quát. Cộng thêm với tấm bằng Gây Mê Hồi Sức tại Hoa Kỳ, tác giả được Hội Đồng Y Khoa Bộ Y Tế quyết định, cho theo học khóa Giải Phẫu Lồng Ngực tại Nhật Bản, qua sự tài trợ của chương trình Colombo lúc bấy giờ.
Tháng 11/ 1969, ông lên đường đi Tokyo. Nghỉ lại 3 đêm, ông đáp chuyến xe lửa tốc hành đến Kyosi Machi, cách Tokyo vào khoảng 60 cây số về hướng Nam. Đây là quận lỵ nhỏ bé, mà cũng là nơi đặt Trung Tâm Giải Phẫu Lồng Ngực nổi tiếng Kekken lâu đời nhất của Nhật Bản. Khóa học gồm có 5 người trong vùng Đông Nam Á (Đài Loan, Nam Dương, Phi Luật Tân, Thái Lan và Việt Nam), dưới sự hướng dẫn của b/s Shiozawa, cùng 2 cộng sự viên trẻ tuổi khác, b/s Anno, b/s Arai. Theo chương trình, học viên còn được hướng dẫn đi viếng thăm vài nơi khác, để trau dồi về kiến thức, đồng thời học hỏi thêm về những kinh nghiệm bổ ích cho chính bản thân mình sau này. Có điểm nổi bật hơn hết, là tinh thần làm việc tập thể của người Nhật đối với quốc gia của họ! Họ cho đó là nghĩa vụ cao cả chung, trong việc canh tân và phát triển đất nước.
Mãn khóa học, về nước, tác giả được Trường Đại Học Y Khoa Sài đề bạt, làm giảng sư cho Khoa Giải Phẫu Lồng Ngực. Song song với công việc tại giảng đường, Bộ Y Tế còn đề cử ông vào vai trò Tổng Quản Đốc Trung Tâm Thực Tập Y Khoa Gia Định, ngang hàng với chức vụ thứ trưởng do Thủ Tướng bổ nhiệm.
Kể từ đầu năm 1974, tình hình chiến sự trở nên sội đọng, khốc liệt trên toàn thể lãnh thổ ở miền Nam. Hai sư đoàn thiện chiến nhất của quân đội, đều bị cầm chân tại vùng hỏa tuyến Quảng Trị. Có lẽ, Hà Nội nhìn thấy được thái độ dửng dưng của Hoa Kỳ đối với chính quyền miền Nam lúc bấy giờ! Qua sự đánh giá của giới quân sự Bắc Việt, thì Phước Long là cứ điểm tối quan trọng, là mục tiêu có tầm vóc về chiến lược. Chiếm được Phước Long, Hà Nội có thể đâm sâu mũi dùi xuống yết hầu của miền Nam. Vì thế, Bắc Việt tung thêm hai công trường 3 và 7, ồ ạt tấn công vào chi khu Bù Đăng, Bù Đốp, Bunard, đồng thời không chế luôn cả sân bay Phước Bình. Ngày 22/12/74, địch quân phối hợp với chiến xa T54 tiến chiếm núi Bà Rá, chế ngự luôn vùng sông Bé, để từ đó, làm bàn đạp chọc thẳng mũi dùi vào tòa tỉnh Phước Long.
Ngày 24/1/75, LĐ 81 BKND được trực thăng vận từ Suối Máu xuống phía đông núi Bù Nho. Từ đó, mở đội hình di chuyển ngược theo quốc lộ 14, vượt qua cầu Daklung, dựa theo sườn đồi, tiến thẳng vào tỉnh lỵ Phước Long. Trận chiến diễn ra thật ác liệt giữa LĐ 81 BKND và lực lượng chính qui Bắc Việt. Nếu đem so sánh về lực lượng đôi bên, thì địch trội hơn ta gấp 5 lần. Trong khi đó, về phía ta, mọi phương tiện yểm trợ, từ không quân cho đến pháo binh, cũng đều bị cắt xén, nhỏ giọt và hạn chế tối đa. Chính vì thế, Phước Long đành phải ngậm ngùi rơi vào tay địch, đánh dấu con cờ Domino đầu tiên bị triệt hạ không thương tiếc trên vùng đất bi thảm này.
Chiều 28/4/75, Đ/T Dương văn Minh nhậm chức Tổng Thống tại phòng khánh tiết dinh Độc Lập vào lúc 6 giờ kém 5 phút. Thủ đô Sài Gòn vang dội trong cơn sấm sét giận dữ, cùng trận mưa ồ ạt trút xuống, như báo hiệu điềm chẳng lành đến với quê hương Việt Nam thân yêu của chúng ta. Qua tin tức chiến sự hằng ngày, người ta chỉ thấy toàn một màu đen tối nằm lì lợm ở phía trước. Tin về núi Bà Đen bị chế ngự bởi hai sư đoàn của Cộng Quân. Tin về SĐ 25 BB của Ch/T Lý tòng Bá bị cô lập ở Củ Chi. Bốn sư đoàn chính qui BắcViệt bị thiệt hại nặng nề tại mặt trận Long Khánh, sau khi chỉnh đốn lại hàng ngũ, lập tức phối hợp với 2 sư đoàn khác từ miền Trung chuyển vào, đang khai triển đội hình để tiến thẳng vào thủ đô. Sài Gòn bừng lên trong cơn sốt sợ hãi. Không khí thủ đô trở nên hỗn loạn trước những tệ trạng cướp bóc và hôi của. Nhiều loạt đạn liên thanh nổ ròn, dài dằng dặc, pha trộn với những tiếng đại bác ầm ì, vọng lại từ hướng cầu xa lộ.
Ngày 29/4/75, Đài Phát Thanh Sài Gòn (44 Phan đình Phùng) phát đi lời của Thủ Tướng Vũ văn Mẫu ra lệnh cho: “Toàn thể quân nhân Hoa Kỳ thuộc cơ quan Dao phải rời khỏi Sai Gòn trong vòng 24 tiếng đồng hồ. ”(trang…169)
Trên hệ thống VOA và BBC chẳng đêm nào mà không loan tin về di tản. Từng đoàn tàu lớn, nhỏ, lũ lượt, túa ra như đàn ong vỡ tổ, nhắm thẳng về hướng Đệ Thất Hạm Đội đang thả neo ở ngoài khơi. Đoàn tàu chiến của Hải Quân VNCH gồm 37 chiếc theo đội ngũ chỉnh tề, trực chỉ Subic Bay, dưới sự chỉ huy của Phó Đề Đốc Chung tấn Cang.
30/4/75, ngày dài nhất trong cuộc đời y sĩ của tác giả, cũng là ngày dài nhất của tất cả quân, cán, chính ở miền Nam. Ngay sau khi cuốn băng nhựa của T/T Dương văn Minh được phát đi vào lúc 10 giờ 20 phút sáng. Vị TổngThống thứ tư, mà cũng là vị lãnh đạo cuối cùng của VNCH. Vị lãnh đạo vỏn vẹn, chỉ có 49 tiếng đồng hồ để bàn giao cho phía bên kia: “Tôi tin tưởng mãnh liệt vào sự hòa giải giữa người Việt với nhau. Để tránh đổ máu không cần thiết, tôi yêu cần binh sĩ VNCH hãy chấm dứt hận thù. Hãy bình tĩnh ở nguyên vị trí của mình. Đừng nổ súng để bảo toàn sinh mạng của đồng bào. Tôi cũng kêu gọi anh em binh sĩ của chính quyền Cách Mạng Lâm Thời đừng nổ súng. Chúng tôi đang ở đây chờ quí vị đại diện để bàn giao việc trao quyền lãnh đạo cho chính phủ dân sự và quân đội mà không gây ra một cuộc tắm máu vô nghĩa cho dân chúng. ” (trang…175 và 176)
Không khí thủ đô bị nghẹt thở, trước những đơn vị bộ đội ngổ ngáo, lầm lì tiến vào để tiếp quản thành phố! Khi cánh cổng sắt của dinh Độc Lập bị kéo xập xuống, bởi chiếc chiến xa T54 mang biển số 843. Chiếc xe do tài xế Lữ văn Hảo điều khiển. Trưởng xa Bùi văn Thân cùng hai xạ thủ Lữ bá Minh và Nguyễn văn Kỳ ngồi ở trên đó. Xe ngừng lại ngay giữa sân. Gã trưởng xa hung hăng nhảy xuống, thoăn thoắt tiến lên bậc thềm, rồi xông thẳng vào đại sảnh, quát lớn: “Dương văn Minh đâu rồi! ” T/T Dương văn Minh bước ra trước nội các của ông, giọng trở nên lúng túng: “Xin ông hãy bình tĩnh, chúng tôi hàng rồi. ”
Khi lá cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam được kéo lên, ngạo nghễ, tung bay, phất phới trên bao lơn dinh độc lập, thì cũng chính là lúc đánh dấu sự xụp đổ hoàn toàn của chế độ Cộng Hòa tại miền Nam! Thế là hết! Miền Nam bị bức tử! Miền Nam bị xóa sổ, nhạt nhòa theo mây khói! Có tiếng súng khô khan, lạc lõng, nổi lên tại ngã tư nào đó! Nhân dân miền Nam đang đứng trước giờ phút nghẹt thở, bi thảm và chua cay nhất của lịch sử đất nước. Lịch sử đã sang trang, đổi màu! Cho đến giờ phút này, tác giả vẫn không quên được câu chuyện xảy ra vào giữa lúc tranh tối, tranh sáng tại bệnh viện Nguyễn văn Học. Câu chuyện liên quan đến lá cờ của VNCH trước đây. Giữa lúc ông cùng vài nhân viên đang bận rộn, chúi đầu vào công cuộc giải phẫu, thì đột nhiên anh y tá Huỳnh văn Tỵ quay sang, nói nhỏ với ông: “Bác sĩ nhìn ra mà xem! ”Ông ngước mắt nhìn ra ngoài! Hai cánh cửa phòng mổ đã mở toang! Từ bên ngoài, hai gã đàn ông có vũ trang đang hầm hầm tiến vào. Tác giả liền dơ tay, nhờ anh Tỵ chận lại, và lịch sự nói với họ, làm ơn đứng đợi ông ở bên ngoài. Lý do, ông đang dở tay, và phòng mổ cần phải có vệ sinh tối đa, để tránh mọi trường hợp nhiễm trùng cho bệnh nhân. Sau khi ca mổ chấm dứt, họ dẫn ông lên văn phòng Tổng Quản Đốc, giữa hai họng súng đen ngòm ghìm sẵn ở trên tay. Vừa đặt chân vào văn phòng, tác giả đã chạm ngay tia mắt cú vọ của gã cán bộ đứng ở trong đấy. Gã quắc mắt, dơ tay chỉ vào lá cờ đang còn dựng ở góc tường, rồi gắt lên: “Đến giờ phút này mà anh còn giữ lá cờ ở đây sao! ”
Nói xong, gã giận dữ, rút phắt khẩu P38 từ trong bao, dí sát vào lưng ông, rồi dẫn thẳng lên hội trường. Không khí lúc ấy thật im lặng lạ thường. Thứ im lặng ghê sợ, như đang chuẩn bị, để hành quyết tên tử tù tại pháp trường cát nào đó! Đảo mắt nhìn sang hai bên, ngoài số cán bộ CS, cùng đám du kích có vũ trang, ông nhận thấy, tất cả nhân viên đều có mặt đầy đủ! Họ ngước lên nhìn ông với nỗi lo lắng, buồn khôn tả. Tác giả cố mở to đôi mắt, như thầm nói với họ, một lời cảm ơn chân thành, về những tình cảm đăc biệt, mà họ đã dành riêng cho ông từ trước đến nay. Bất chợt, như có tay ai đụng nhẹ vào sau lưng! Ông giật mình quay lại. Thì ra, là tên du kích còn rất trẻ! Hắn có vẻ ngập ngừng, rồi trao cho ông chiếc micro đang cầm sẵn ở trên tay. Ông đỡ lấy, hiểu ý, và biết, mình sẽ phải nói gì bây giờ! Lưỡng lự trong giây lát, ông ngẩng lên chậm rãi: “Đối với nhân viên có mặt ngày hôm nay ở trong hội trường, trước đây, nghe tin CS sắp chiếm Sài Gòn, đã tìm cách bỏ nước ra đi. Nhưng trước hơn 550 thường dân bị thương do pháo kích, đa số là phụ nữ và trẻ em, tôi đã yêu cầu họ vì lòng nhân đạo, ở lại để giúp tôi săn sóc người bệnh. Tôi có hứa với họ là một khi CS vô tới đây, tôi xin một mình hoàn toàn lãnh trách nhiệm. Hôm nay đang đứng trước mặt nhân viên, tôi long trọng lập lại lời hứa này. Nếu quí vị xem những người còn lại là có tội, thì tôi xin một mình nhận lãnh bất cứ hình phạt nào. Nếu cần đem một người nào ra xử bắn thì tôi xin đại diện để nhận lãnh hình phạt đó. ”(trang…177 và 178)
Tuy nhỏ nhẹ, nhưng không kém phần khẳng khái, cứng rắn. Tác giả đã chứng tỏ cho kẻ thù nhìn thấy ở nơi ông, cả một tinh thần trách nhiệm, cùng bản tính can cường của vị chỉ huy đối với thuộc cấp. Lòng nhân đạo bao la của người thầy thuốc, đối với đồng bào ruột thịt trong cơn nguy khốn này. Chính vì thế, mà ông ở lại! Ông sẵn sàng chấp nhận! Chấp nhận tất cả mọi hình phạt do thuộc cấp gây nên! Cho dù có phải đổi lấy cái chết đi chăng nữa! Ông đúng là tấm gương sáng! Tấm gương ấy, làm sao mà kẻ thù không khỏi e dè, kiêng nể, để rồi đi đến thán phục!
Sau khi nhuộm đỏ hết miền Nam, CS chia ra thành từng bước. Công việc trước mắt, là ổn định lại tình hình an ninh do quân đội kiểm soát. Kế tiếp, họ dùng loa phóng thanh, kêu gọi toàn thể quân, cán, chính phải ra trình diện tại các địa điểm gần nhất để đi học tập cải tạo! Lần đầu tiên người dân miền Nam mới được nghe đến từ ngữ này! “Cải, có nghĩa là cải cách! Tạo, là tái tạo! Cải tạo là cải cách và tái tạo lại con người. Sở dĩ, các anh phải học tập cải tạo, bởi vì điều dễ hiểu, tất cả mọi người trong các anh, đều có tội với tổ quốc và nhân dân! Nhưng! Cũng chỉ vì lòng nhân đạo! Cũng chỉ vì chung một nòi giống, nên đảng mới đề ra chánh sách khoan hồng, để áp dụng cho những người lầm đường, lạc lối, mà biết quay về với tổ quốc và nhân dân! Các anh muốn trở thành người công dân tốt trong xã hội mới, thì tất nhiên phải học tập! Có học tập thì các anh mới ăn năn, hối cải được! Học để đấu tranh với bản thân! Để biết đường lối cùng chánh sách của đảng và nhà nước! Biết! Để chấp hành cho tốt! Mục đích của đảng, là để cho các anh soi rọi lại bản thân, nhìn nhận tội lỗi của mình trong quá khứ, để từ đó, quyết tâm, ra sức rèn luyện bản thân, ngõ hầu trở thành người công dân hữu dụng cho đất nước sau này. Đảng lúc nào cũng chủ trương giáo dục, uốn nắn cho các anh! Lúc nào đảng cũng giơ cao, đánh khẽ! Lúc nào, đảng cũng giang rộng vòng tay, để đón các anh quay về với cộng đồng chung của dân tộc.” Họ nói hay quá! Ai nấy đều náo nức, đổ xô đi trình diện! Trình diện để đi học, để về sớm! Từng đoàn xe bít bùng, lầm lũi, âm thầm đi trong đêm tối. Trảng Lớn! Trại đầu tiên mà ông đặt chân tới! Trại tù mang tên L915 nằm sát ngay ở bìa rừng. Có tháp canh cùng hàng rào kẽm gai chằng chịt, bao bọc ở chung quanh. Ở đây được chia ra thành từng tổ, từng đội, từng lán để lao động. Học tập tốt! Lao động tốt! Là hai chiếc bánh vẽ to tướng để bình bầu xuất sắc. Lao động là vinh quang! Ngày nào cũng chuyền đất! Ngày nào cũng đắp nền! Ngày nào cũng vào rừng để chặt cây! Để làm nhà! Làm hội trường! Bao nhiêu sức lực cùng mồ hôi nhễ nhại đổ ra ở trên đấy. Thời gian cứ lạnh lùng trôi qua! Mới đấy mà đã gần bốn tháng rồi còn gì nữa! Nhân dịp, có chuyến viếng thăm của gã cán bộ cấp tá. Gã đảo cặp mắt láo liên nhìn chung quanh, rồi hất hàm, quay sang hỏi mấy anh tù: “Các anh nghĩ bao giờ sẽ được thả về! ”
Nhiều anh thật thà trả lời “tối đa chỉ có 10 ngày, ” chiếu theo Thông Cáo của Ủy Ban Quân Quản. Tên cán bộ cười khẩy: “Sao các anh ngây thơ thế! Khi người ta nói một ngày là mình phải nghĩ đến một năm, biết chưa! ”(trang…188)
À! Ra thế! Đảng nói 10 ngày lại dãn ra thành 10 năm. Đảng là sợi giây cao su không hơn không kém! Đảng muốn nói xuôi, nói ngược, thế nào cũng được! Thì ra, CS là như thế!
Xuân Lộc (Long Khánh). Trại tù thứ nhì mà ông được đưa đến. Đây là doanh trại của SĐ 18 BB trước kia. Sư Đoàn lẫy lừng đã anh dũng chận đứng được 4 công trường thiện chiến của Bắc Việt. Trận đánh đã tô điểm vết son chói lọi cuối cùng vào quân sử QL VNCH, dưới sự chỉ huy tài tình của Th/Tướng Lê minh Đảo. Một vị tướng trẻ dày kinh nghiệm, hào hùng và thao lược. Ở đây, ông may mắn được làm quen với nhà điêu khắc Nguyễn thanh Thu. Tác giả nổi tiếng với bức tượng Thương Tiếc tại nghĩa trang Biên Hòa. Ông nguyên là giáo sư hội họa và điêu khắc của trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định. Sẵn có kiến thức và đam mê hội họa, hai người thường bàn luận, trao đổi với nhau, về hội họa thuần túy, về môn phái trừu tượng lẫn ấn tượng. Xa hơn nữa, hai người còn đề cập đến tuyệt tác Nàng Mona Lisa của danh họa Leonard da Vinci cùng với 300 họa phẩm lẫy lừng, rút ra từ kinh thánh, được tô điểm ngay trên trần nhà vòm cung của nhà nguyện Sistine, nằm bên trong tòa thánh Vatican tại La Mã của Michelangelo cùng thời với Leonard da Vinci.
Tác giả nguyên là một sĩ quan cấp tá nằm trong ngành Quân Y. Hơn nữa, trại Xuân Lộc chỉ dành riêng cho sĩ quan cấp úy. Vì thế, ông cùng hai b/s Lê thànhVĩnh và b/s Nguyễn minh Huy được chuyển thẳng về trại tù Suối Máu (Biên Hòa). Suối Máu. Cái tên nghe sao mà rùng rợn, khiếp đảm! Nguyên nhân, cũng chỉ vì, trước đây, thời VNCH có thiết lập trại tù kiên cố tại xã Tam Hiệp, để giam giữ tù binh CS. Vào dịp Tết Mậu Thân năm 1968, Cộng quân xử dụng lực lượng khá hùng hậu, tấn công ồ ạt vào trại giam này, với mục đích là giải thoát cho đồng đội, đồng thời, cũng muốn tạo ra một tiếng vang lớn cho cả nước. Để giải tỏa áp lực địch, BTL/TQLC tại căn cứ Sóng Thần liền trực thăng vận một tiểu đoàn, nhảy xuống từ phía sau, đồng thời áp dụng chiến thuật tốc chiến, tốc thắng từ sau lưng đánh tới. Vì lý do bất ngờ, nên địch trở tay không kịp, và bị thảm bại hoàn toàn. Máu nhuộm đỏ, lênh láng cả dòng suối ở trong vùng. Kể từ đó, hai chữ Suối Máu trở thành quen thuộc, đối với người dân địa phương ở tại nơi đây. Cũng ở tại nơi này (vào khoảng đầu tháng 4/76) lần đầu tiên, tác giả chứng kiến một tòa án nhân dân được dựng nên, để xét xử tội vượt trại của anh Nguyễn văn Bé. Cùng vượt trại với anh, còn có anh Nam, nhưng anh này bị trúng đạn, rồi chết, cũng chỉ vì, bị hành hạ, đánh đập dã man ngay sau khi bị bắt lại.
Thật ra, phiên tòa chỉ là chiếu lệ, còn bản án thì kể như đã có sẵn từ trước. Phiên tòa xét xử, dưới sự chứng kiến của số tù nhân được tuyển lựa làm đại diện. Chủ tọa là tên cán bộ trưởng trại, mà cũng là chánh án cho phiên tòa này. Mở đầu, anh Bé đọc bản tự kiểm do chính mình viết ra. Bản tự kiểm chẳng khác nào như bản cáo trạng, đã dẫn đến cái chết thê thảm cho anh! Có lẽ, tên cán bộ quản giáo đã mớm cho anh những hứa hẹn hão huyền nào đó thì phải! Sau khi nghe xong, tên trưởng trại liền quắc mắt, giận dữ, đập mạnh tay xuống mặt bàn, rồi đứng dậy hét lớn: “Tử hình.” Tức thì, hai tên vũ trang lực lưỡng đứng ở gần đấy, liền xông tới, xốc nách anh lôi xềnh xệch chẳng khác nào như kéo một con vật. Vài phút sau, mọi người đều nghe thấy loạt súng nổ vang lên từ hướng nghĩa trang. Thế là hết! Kết thúc một mạng người! “Huyệt đã đào sẵn cho anh trước khi tòa xử! Đó là công lý của CS. ” (trang…226)
Vào buổi sáng còn ướt đọng hơi sương, tác giả được lệnh chuyển trại, leo lên chiếc xe Molotova cùng với tên vũ trang áp tải đi kèm. Xe từ từ chuyển bánh, gợn lên biết bao nhiêu nỗi buồn phiền, lo lắng ở trong ông. Xe ngừng lại tại Sóng Thần. Căn cứ của BT L/SĐ/TQLC ngày nào. Cảnh vật trở nên hoang sơ tiêu điều. Trong thời gian lưu lại ở nơi đây, tác giả được Y Sĩ Trưởng của Trung Đoàn 875 đích thân xuống tận nơi để khám bệnh cho ông. Ngày nào ông cũng phải nặn óc để làm bản tự kiểm rồi nạp cho cán bộ. Có điểm đặc biệt, gã cán bộ chính trị thường xuyên khuyên ông, đừng nên chỉ trích đế quốc Mỹ. Gã thường nói với ông bằng giọng úp mở: “Khi ra khỏi trại về nhà anh sẽ thấy đời sống có khác đi! ”(trang…231)
Có lý nào, mình sẽ rời khỏi nơi này, để về xum họp với gia đình! Tác giả vẫn thường hỏi thầm với chính mình như vậy! “Anh này được tạm hoãn vì nhu cầu nhà thương cần bác sĩ giải phẫu về lồng ngực. Anh mà mất đi thì tôi không có người để thay thế. ” (trang…231)
Đấy, chính là lời của gã giám đốc bệnh viện Nhân Dân (Nguyễn văn Học cũ) nói với tên thủ trưởng Đoàn 875 về ông. Chính gã đem chiếc xe Ford Falcon của bệnh viện lên đón ông. Qua thủ tục rườm rà, tác giả phải nán lại mất vài hôm, để chờ giấy giới thiệu của Thứ Trưởng Y Tế Dương quỳnh Hoa. Đúng ngày 20/4/76, tác giả rời khỏi Căn Cứ Sóng Thần, trực chỉ về TTTTYK Gia Định. Cho đến giờ phút này, ông vẫn còn nhớ, hôm ấy thật cảm động vô ngần. Hầu hết nhân viên đều đổ xô ra đón. Ông khom người, khập khiễng bước ra, trước những ánh mắt bùi ngùi, cảm động gần như muốn khóc. Ông nhớ mãi cái hình ảnh sâu đậm ấy, và cất giữ nó vào tận đáy sâu của ký ức, đồng thời ấp ủ, nâng niu nó như thứ kỷ vật ngà ngọc, vô giá, khó quên ở tại đời sống này.
Lạc lõng giữa xã hội đầy tỵ hiềm, nghi kỵ và mâu thuẫn. Xã hội bị quậy tơi lên, đục ngầu, giống như màu đất sét. Xã hội bị băng hoại. Xã hội, mà trong đấy mọi người đều soi mói, để ý, dòm ngó lẫn nhau. Xã hội mà hai chữ tình người hầu như không còn hiện diện ở trong đó. Luân lý bị đảo lộn. Chân dung Sài Gòn hầu như mất hẳn đi tính chất hồn nhiên, vô tư như trước đây. Sài Gòn với luồng xe đạp cuồn cuộn của hôm nay. Của những khuôn mặt hốc hác, gầy guộc, già nua đi trước tuổi. Người ta quần quật, bươn trải, vật vã với cuộc sống, lo ngại về chén cơm độn hẩm hiu chiều nay. Người ta ngán ngẫm về hai chữ hòa bình. Hòa bình, có! NhưngTự do thì không! Hòa bình trong lam lũ, cơ cực. Hòa bình trong chiếc bánh vẽ chói ngời, về tương lai sáng lạn đang chập chờn, di động ở phía trước. Tương lai đó chẳng bao giờ có thực! Nó chẳng khác nào như chiếc bong bóng nổi phập phồng vào những ngày mưa dầm dề, dai dẳng. Ngày nào cũng đi làm! Ngày nào cũng phải làm không công cho bệnh viện! Làm để trắc nghiệm, để thử thách! Đời sống trở nên chật vật, khó khăn, cùng nỗi tủi nhục, dằn vặt về tinh thần. Cho dù có tủi nhục, có khó khăn đến thế nào đi chăng nữa! Nhưng ông vẫn tâm niệm với chính mình: Phải nhẫn nhục mới được! Lúc nào cũng phải Nhẫn! Nhẫn để mà chờ! Như cổ nhân trước kia, đã từng ngồi bên sông vắng để chờ thời! Nói tới vượt biên thì phải nói tới b/s Mã Xái. Nhờ có ông giới thiệu, nên tác giả mới có cơ may hội kiến với người chủ tàu! Lão tự giới thiệu, lão tên là Lý Đông (người Hoa). Được biết, tác giả có 2 văn bằng Cận Dương và Viễn Dương Thuyền Trưởng. Lão ngỏ ý, muốn thực hiện chuyến hải hành ra khơi để tìm tự do! Vấn đề đặt ra, là phải tìm người có khả năng, có đầy đủ mọi kinh nghiệm để lèo lái con tàu trong cơn phong ba, bão táp. Tác giả cho biết, chúng ta thiếu thốn về tất cả mọi phương diện, từ dụng cụ để đo lường sức gió, sức nước. Chúng ta chỉ dùng có mỗi phương pháp ước lượng hàng hải mà thôi. Điểm quan trọng hơn hết, chúng ta cần phải có chiếc sa bàn để định hướng! Như thế là tạm đủ rồi! Còn ban đêm, chúng ta có thể nhìn sao để định phương hướng. Chúng ta phải tính toán kỹ càng đâu vào đấy, để chuyến đi có thể hoàn thành một cách tốt đẹp và mỹ mãn.
Giã từ Sài Gòn vào buổi sáng còn hơi sương. Trên chuyến xe mang số ẩn tế, dọc theo lộ trình Cần Thơ, Thốt Nốt, Long Xuyên, rồi tiến thẳng xuống thị xã Rạch Giá. Đây là thành phố của miền biển. Thành phố, mà hầu hết đêm nào, cũng có chuyến ra khơi và không hẹn ngày trở lại! Thành phố đang bị phong tỏa gắt gao, để lùng bắt những người vượt biên đang lẩn trốn ở quanh đấy, chủ yếu là nhắm thẳng vào thành phần bác sĩ và sĩ quan cấp tá của VNCH. Trước tình thế nghiêm trọng, mấy anh em đều phải phân tán mỏng, tản ra mấy địa điểm kín đáo để ẩn trốn. Nhìn vào thực lực, hầu hết anh em quân y đều trở thành ban tham mưu đầu não cho chuyến đi này! Ngay từ buổi đầu tiên, anh em phải gấp rút, kín đáo, ngồi lại, bàn bạc với nhau: Nghiên cứu về thời tiết, về gió mùa! Kiểm soát lại máy móc, dầu mỡ, dụng cụ, nước uống cùng lương thực. Phương hướng cùng nạn hải tặc có thể xảy ra, trên suốt cuộc hành trình từ Rạch Giá ra đi! Giờ G: (Giờ khởi hành). Tối 15/4/79, hành khách lần lượt được gọi tên để sắp xếp xuống tàu. Sau khi kiểm soát lại lần chót, chiếc KG 0783 bắt đầu chuyển động dời bến, dưới sự điều khiển của viên thuyền trưởng lạ mặt, có tướng mạo oai phong, lẫm liệt. Tàu bị mắc cạn nửa chừng, khiến cho ai nấy đều hoang mang, giao động, và mất tin tưởng vào viên thuyền trưởng thiếu kinh nghiệm này. Lập tức, ban tham mưu quyết định, yêu cầu tác giả đứng ra để lèo lái con tàu: “Đây là quyền lợi sống còn của cả tập thể, của hàng trăm sanh mạng, xin anh đảm đương trách nhiệm làm thuyền trưởng cho. ”(trang…277) Trải qua 24 tiếng đồng hồ, con tàu lại tiếp tục lên đường. Ra khơi! Biển chập chùng, mông mênh, cuốn theo biết bao nhiêu nỗi hồi hộp, lo lắng, về những gian nguy, hiểm nghèo đang chập chờn, chờ đón ở trước mặt.
Buổi sáng, tàu phát hiện có điểm khả nghi ở sau lưng! Ai nấy đều cảnh giác, bảo nhau, coi chừng hải tặc! Không khí chợt trở nên xôn xao và căng thẳng lạ thường! Lệnh báo động được ban ra! Bao nhiêu đàn ông, thanh niên đều ùn ùn kéo lên, đứng theo hàng ngũ chỉnh tề, với dao mác, gậy gộc, búa rìu, xăng Molotov, đạn trái sáng…Tất cả đều sẵn sàng trong vị trí chiến đấu! Tàu địch tiến lại gần, rồi gia tăng tốc độ để thị uy. Ta bình tĩnh, thủ thế! Địch nhoài người sang tấn công! Ta đồng lòng đánh trả! Địch hung hăng, la hét! Ta bình tĩnh, sáng suốt! Đôi bên quần thảo, dằng co với nhau thật quyết liệt, nhưng, bọn cướp vẫn không tài nào nắm được thế chủ động! Chính vì thế, chúng đành bỏ cuộc, đổi hướng, chạy bám theo chiếc KG 3640 đang nhấp nhô ở đằng trước. Chuyện cướp vừa xong, thì lại đến chiếc máy bơm bị hư! Nước ồ ạt tràn vào, có nguy cơ đến chiếc máy Dynamo. Nhanh trí, bs Mã Xái liền huy động lực lượng thanh niên, bắt tay ngay vào công việc tát nước. May mắn thay, nhóm anh em kỹ thuật đã tận dụng hết khả năng để sửa chữa, và sau đó, chiếc máy lại tiếp tục bơm nước như thường lệ. Con tàu vẫn lầm lũi lướt đi trong đêm tối! Gió nhè nhẹ! Biển êm! Trên nền trời quang đãng, lác đác vài vì sao lấp lánh. 9 giờ! Lại có tàu lạ xuất hiện! Ai nấy đều quả quyết, là cướp biển! Một phiên họp bất thường được triệu tập liền sau đó! Có tiếng ai la lớn: Nên hàng hay nên chiến! B/s Mã Xái cùng số đồng nghiệp dứt khoát khẳng định: “Phải quyết tâm chiến đấu tới cùng! Chúng ta phải tìm cái sống trong sự chết. ”Tất cả đều đồng loạt hưởng ứng, bầy tỏ sự quyết tâm không hề lay chuyển. Trong bóng đêm, gương mặt họ đanh lại! Đôi tay họ nắm chặt vả thế trân được trải ra. Với thành phần xung kích, có thang cây, xăng Molotow, để chuẩn bị cho cuộc tấn công xáp lá cà. Tàu địch lấy đà, đâm thẳng vào hông bên phải! Đèn tàu bật sáng choang! Xa xa, thấp thoáng vài vệt sáng đang lù lù kéo tới. Địch quăng neo, bám vào thân tàu! Ta bình tĩnh chặt đứt. Địch chuyển hướng quăng dây vào phía sau! Ta chặt đứt ném xuống biển! Tàu bị va mạnh, khiến cho tàu địch mất thăng bằng, chao hẳn sang một bên. Địch la hét, giận dữ! Ta tìm cách trả miếng! Địch thay đổi chiến thuật, lùi lại, rồi lòn sang bên trái. Ta đổi hướng sang phải, liền gia tăng tốc độ! Có tiếng la thất thanh của người nào đó, hình như bị tuột tay thì phải! Khí thế ở trên mui bắt đầu lên cao! Nước biển lại tràn vào, anh em hợp nhau tát! Chính giữa lúc hoang mang, nguy kịch ấy, mơ hồ, nghe như có tiếng động cơ của chiếc máy bay nào đó, vọng lại từ hướng tây, rồi cứ thế, cứ thế, tiến lại gần, và cuối cùng, thì lượn qua, lượn lại, vần vũ ở trên đầu! Phải chăng, đây là một phép lạ, một ân sủng đặc biệt, mà thượng đế đã dành riêng cho tất cả mọi người trong cơn nguy khốn này! Ai nấy đều mừng rỡ, nhìn nhau, mà lòng cảm thấy rưng rưng nước mắt!
Con tàu lại tiếp tục cuộc hành trình. Hai trái sáng được bắn lên. Lá cờ S. O. S. nền trắng với hai gạch đỏ chéo góc được căng ra ở đằng trước. Viên sĩ quan thuộc ngành truyền tin trước đây, phất chiếc cờ gởi đi tín hiệu cấp cứu! Nhưng tất cả đều im lặng trở nên vô nghĩa! Đứng trước tình trạng bi đát đó, tác giả đưa ra đề nghị, nên tìm đường ủi vào đất liền. Ai nấy đều gật đầu, đồng ý. Con tàu liền chuyển hướng đâm thẳng vào Batu Rakit. Ở đây, mọi người đều được đón tiếp niềm nở, bởi đơn vị Task Force Mã Lai đang hiện diện ở trên đó.
Hai tuần sau, hầu hết thuyền nhân được xe nhà binh của chính phủ Mã Lai chở đến Marang, phía Bắc Terengganu. Cuối tháng tư, tất cả được chia ra thành7 nhóm. Riêng tác giả cùng gia đình bị lọt lại, được xếp trong danh sách của nhóm thứ 7. Suốt cả ngày hôm ấy, từ nhóm số 1cho đến nhóm thứ 6 lần lượt được xe buýt cảnh sát chở ra hải cảng Terengganu. Sáng hôm sau, Tr/Úy Tăng (người Hoa) có ghé thăm, liền cho biết: “Các anh may mắn lắm. Chuyến tàu chở người qua đảo Bi Đông, dọc đường chẳng may đã chìm. ”(trang…295)
Rời Marang vào buổi sang15/5/79 trên chuyến tàu đánh cá chòng chành, mỏng manh. Chuyến tàu gồm 198 người thuộc toán số 7 (KG0783). Vỏn vẹn chỉ có bằng đấy, so với con số 687 lúc ban đầu (14/4/79). Trên những khuôn mặt hoảng hốt, lo lắng, người ta ngơ ngác hỏi nhau: Mình đi đâu bây giờ! Có giọng khác lại xen vào: Đi đâu thì làm sao mà biết được! Không khí chùng xuống bằng những tiếng thở dài lê thê, buồn não nuột. Thảm kịch về vụ đắm tàu vẫn còn đấy! Người ta bị ám ảnh về những mất mát to lớn của 6 toán đi trước! Người ta bị hoang mang, giao động, bị dày vò từ đêm này sang đêm khác! Tàu cặp bến! Có tiếng la ó, gọi nhau, rộn rã ở trên bờ! Thì ra là Pulau Bidong! Hòn đảo của tị nạn! Bằng đấy con mắt đều mở lớn và tỉnh táo trở lại! Họ bước lên bờ, mà lòng cảm thấy xôn xao, trước những cái vẫy tay, những nụ cười thân quen của đồng bào ruột thịt đang trải ra, chào đón họ ở trước mặt.
Pulau Bidong là trại tị nạn, dưới sự đùm bọc, che chở của Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR), cùng nhà cầm quyền Mã Lai. Trại chính thức mở cửa từ ngày 8/8/78 để tiếp nhận những thuyền nhân VN ra đi, chạy trốn cái chế độ hà khắc của CS. Trại được điều hành qua vị trại trường, là bs Nguyễn sơ Đông. Trại có sức chứa vào khoảng 45, 000 người và được chia ra thành 7 khu, tính theo mẫu tự từ A cho đến G. Mỗi khu đều có vị trưởng khu do người dân bầu lên. Ngoài ra, còn có ban điều hành để trợ giúp cho trưởng trại. Có hội đồng cố vấn, gồm 15 thành viên. 7 khối chuyên môn cùng các ban ngành để điều hành mọi công tác liên quan đến đồng bào tỵ nạn ở trên đảo. Sau này, khi bs Đông lên đường đi định cư, lm. Triệu được bổ nhiệm vào chức vụ trại trưởng, và tác giả là trại phó của Pulau Bidong.
28/10/79 Lm. Triệu lên đường đi định cư tại HK, tác giả được bầu vào chức vụ trại trưởng để thay thế. Tác giả bắt tay ngay vào công việc, dẹp tan mọi tệ nạn băng đảng đang hoành hành ở trên đảo. Khởi công, xây dựng bệnh viện có tên là Sick Bay. Với sức chứa vào khoảng 60 người. Có phòng mổ, phòng quang tuyến X, phòng nha khoa, phòng sanh, phòng hồi sức. Trại nha khoa, trại sản khoa, trại bệnh tổng quát…Công việc xây cất đều do thuyền nhân ở trên đảo thực hiện. Phương tiện cùng vật liệu xây cất đều do bs Bernard Kouchner cùng Cao Ủy Tị Nạn cung cấp. Thiết lập đài tưởng niệm thuyền nhân năm cánh buồm ngay trên đào Pulau Bidong. Ngoài ra, đảo còn có Trung Tâm Sinh Ngữ cùng đồi tôn giáo, để mọi người có thể đến đó sinh hoạt về mặt tín ngưỡng.
Bàn giao chức vụ trưởng trại cho ông Nguyễn văn Thành, nguyên là TTK phủ Phó Tổng Thống. Tác giả bùi ngùi nhìn lại hòn đảo Pulau Bidong lần chót. Nơi ấy, đã để lại ở trong ông, cả dấu ấn đậm nét nhất trong đời sống tha hương, hiện hữu này. Chiếc tàu Black Gold từ từ rời bến, gợn lên ở trong ông nỗi buồn man mác, và cứ xa dần, xa dần, rồi hòn đảo chìm khuất vào chân mây. Đặt chân lên cảng Terenggnu, ông cùng gia đình bước lên xe bus trực chỉ đến thủ đô Kuala Lumpur. Tưởng chừng như nhiệm vụ đã xong xuôi đâu vào đấy. Nào ngờ, ngay buổi sáng ngày hôm sau, Đ/Tá Martidale thuộc tòa Đại Sứ Hoa Kỳ đã đích thân đến gặp ông, ngỏ ý, muốn ông nán lại thêm thời gian ngắn, để chấn chỉnh lại trại chuyển tiếp Cherras.
Cuối năm 1980, tác giả cùng gia đình mới chính thức, lên đường đi định cư tại Hoa Kỳ. Qua sự bảo trợ của người em gái, gia đình ông đến sinh sống tại Buren nằm trong tiểu bang Arkansas. Vì địa điểm khá xa thành phố! Hơn nữa, lại không có trung tâm luyện thi ECFMG, FLEX! Vì thế, ông cùng gia đình đành phải di chuyển về Houston trên chuyến xe Van của người bạn tốt bụng Hoàng văn Lộc. Hằng ngày, gia đình ông sinh hoạt trong căn nhà khá rộng rãi, đầy tiện nghi, tọa lạc ngay trên đường Victoria, nằm trong khu South Bell. Để phụ giúp thêm mức thu nhập cho gia đình, tác giả phải đi làm công cho Utoten. Ngoài ra, ông còn phải đi làm thêm nghề bán xăng, tại địa điểm nằm khá xa với thành phố. Trong dịp về Cali để học thi, tác giả đột ngột bị chứng bệnh ruột dư cấp tính. Rất may, có bs Nguyễn ngọc Kỳ giới thiệu cho ông vào nhà thương UCI để mổ khẩn cấp.
Trong thời gian nằm bệnh viện, gs Warchnam có đến thăm và căn dặn, khi nào ra khỏi bệnh viện, nhớ đến gặp ông ở trường Loma Linda. Giáo sư Warchnam là chỗ quen biết với tác giả từ trước năm 75, khi ông đương đảm trách chức vụ, trưởng phái đoàn giải phẫu tim của Hoa Kỳ tại Sài Gòn. Ông cho biết, hiện nay ông đang làm việc tại Riverside (California). Chần chờ mãi, vì lý do bận việc thi cử, nên tác giả không có cơ may, gặp được vị giáo sư kể trên! Tác giả được hướng dẫn đến gặp gs Bruce Branson, chủ nhiệm khoa giải phẫu của đại học Loma Linda. Trong suốt một tiếng đồng hồ, vị giáo sư này không hề đá động đến bất cứ câu hỏi nào liên quan vấn đề Y Khoa! Ông chỉ bàn đến sự xụp đổ của miền Nam trước đây: “Anh đã hy sinh nhiều cho xứ sở của anh, bây giờ trường Loma Linda có bổn phận giúp đỡ lại anh. Chừng nào anh muốn vô chương trinh giải phẫu của Trung Tâm Y Khoa Loma Linda. ” (trang…367) Có một điều mà không ai có thể ngờ được! Tác giả được trường Loma Linda gọi phỏng vấn, đồng thời chấp nhận cho ông, là bác sĩ thường trú ngoại khoa thật dễ dàng. Miễn luôn bằng ECMFG, miễn năm Intership. Chương trình giải phẫu gồm 5 năm. Cuối cùng, là phần giải phẫu trẻ em cùng lồng ngực. Giáo sư còn giới thiệu ông sang nhà thờ Cơ Đốc Giáo mượn tiền để thuê chỗ ở cho tiện việc học hành.
Giáng sinh năm 1984, ông được ghi tên vào danh sách trực gác của khoa ngoại và được hưởng lương của bác sĩ thường trú ngoại khoa. Tác giả tập trung vào việc học hành. Ngày 6/3/85, ông cùng với bs Vũ quí Đài (nguyên khoa trưởng trường ĐHYK Sai Gòn) đi dự thi bằng hành nghề trong tiểu bang Cali tại San Francisco. Tốt nghiệp bằng hành nghề tiểu bang cùng bằng giải phẫu của trường Loma Linda, tác giả gia nhập hội Thẩm Mỹ Hoa Kỳ (1986). Sáu năm sau, ông trúng tuyển luôn bằng Giải Phẫu Thẩm Mỹ Quốc Tế. Tác giả được chủ tịch hội Thẩm Mỹ Quốc Tế (gs Bolivar Escobido mời đi thuyết trình về Giải Phẫu Thẩm Mỹ ở Mỹ Châu và Nam Mỹ. Về Orange County, ông mở phòng khám bệnh tư tại số 14441 # 2 đường Broohurst, Garden Grove được 10 năm. Sau đó, dời về số 17672 đại lộ Beach blvd được 4 năm. Cuối cùng, trở lại số 13071 đường Broohurst # 170 Garden Grove cho đến năm 2004.
Nói tới thương trường thì người ta phải nói đến chiến trường! Hay nói khác đi, nó chẳng khác nào như đang đứng trước bàn cờ tướng, mà trên đó, người ta tận dụng đủ mọi mánh khóe, mọi mưu lược, để buộc cho đối thủ, phải lùi bước, phải nhượng bộ, trước sự khởi động của thế cờ bí truyền, vô phương cứu chữa! Ván cờ ấy làm cho ông nhức đầu, hoa mắt, rồi thình lình, cảm thấy đau nhói, quặn thắt, trước cơn đau tim bộc phát, dày xéo lên thể xác ông dữ dội! Rất may, có bác sĩ Loan thị Hồ Ngô giới thiệu kịp thời, cho ông vào điều trị tại bệnh viện Good Samari ở Los Angeles. Bệnh tim mạch vừa dứt thì ngay năm sau, chứng suy thận lại dồn dập kéo đến! Tuần nào ông cũng phải đi lọc máu, 3 lần cho một tuần. Vì thế, ông đành phải nghỉ việc! Mọi công việc liên quan đến phòng mạch, ông đều giao tất cả cho người phối ngẫu, cùng cô con gái tốt nghiệp chuyên khoa về phòng mổ, tiếp tục đảm trách, cộng thêm với sự hợp tác của bạn bè cùng số bác sĩ chuyên môn về thẩm mỹ.
Thoắt chốc mà 39 năm trôi qua! 39 năm tính từ ngày30 tháng 4 năm75 làm tiêu mốc thời gian! 39 năm còn đọng lại ở trong ông được những gì! Quá khứ và hôm nay! Gia đình cùng bạn bè! 39 năm, bước vào tuổi hoàng hôn, ông nắn nót, ghi lại từng dòng chữ, thu hẹp trong những trang hồi ký này, từ tuổi thơ cho tới ngày ông khôn lớn. Quê hương! Thời niên thiếu, cùng suốt cả chặng đường dài gió bụi mà ông đã miệt mài, dấn thân ở trên đấy! Chặng đường của những vinh, nhục! Của tù đầy! Của gian truân, khổ ải! Cho dù có vinh nhục, có gian truân, có khổ ải đến mấy đi chăng nữa! Nhưng tác giả vẫn cảm thấy hãnh diện với chính bản thân mình, với gia đình, với bạn bè, về những gì mà ông đã đóng góp cho tha nhân, cho xã hội, cho quê hương trước đây! Hằng đêm, ông vẫn trằn trọc, thao thức, rồi tự hỏi thầm với chính minh: Cho đến bao giờ, đất nước tôi mới thoát ra khỏi cái cảnh áp bức, bóc lột! Cho đến bao giờ, dân tộc tôi mới được hưởng một nền hòa bình, tự do, dân chủ thực sự! Cho đến bao giờ, chế độ bạo quyền hiện nay mới xụp đổ, ra đi như các quốc gia ở Đông Âu, cho đàn chim lìa xứ quay về tổ, để từ đó, xiết chặt thành vòng tay lớn, hầu viết lên những trang sử hào hùng, chói lọi cho dân tộc tôi. Một dân tộc kiên cường, bất khuất! Một dân tộc đã đổ ra biết bao nhiêu là xương máu, tiếp nối từ đời này sang đời khác, để đấu tranh, tô bồi cho cái giải giang sơn gấm vóc hình chữ S ấy được trường tồn.
Để kết thúc bài viết này, tôi xin mượn đôi dòng cảm nghĩ dưới đây của tác giả, được trích trong trang 374: “Ngồi ôn lại suốt cuộc đời y sĩ ngày mới ra trường cho đến nay, trải qua những vinh quang và tủi nhục, tôi cảm thấy lòng mình yên ổn. Tôi đã làm tròn chức năng của một người thầy thuốc, hết lòng lo nghĩ và chăm sóc tận tình cho quân nhân ngoài tiền tuyến, cũng như tận tụy với bệnh nhân nơi hậu cứ, trong các nhà thương. . ”
Sau chót, tôi thành thật gửi đến tác giả, lời cầu chúc an bình và hạnh phúc. /.
Trang Luân
Cali. 10/14
Nguồn: Phạm Quốc Bảo chuyển bài


















