Mần được chi

Posted: 04/11/2014 in Hồ Đình Nghiêm, Tùy Bút / Tản Văn / Ký Sự

Hồ Đình Nghiêm

non_hue

Tựa đề trên, ba chữ nọ bị chia lìa từ câu ca dao nguyên bổn:

Còn ăn còn ngủ còn gân,
không ăn không ngủ có mần được chi.

Nó thiếu dấu chấm hỏi đoạn hậu, hoặc một dấu chấm than? Cảm hoài hay một sự ta thán?

Trong ca dao không thiếu những hình ảnh ngây ngô đến duyên dáng, không thiếu những từ ngữ vụng về tới đáng yêu. Đơn cử:

Chuột kêu chút chít trong rương,
em đi cho khéo đụng giường mẹ hay.

Và:

Chim khôn kêu tiếng rảnh rang
người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.

Chao ôi, hai chữ rảnh rang sao nó đắt giá tới ngần ấy. Hơn hẳn chữ thong thả, hơn hẳn tiếng thanh cao hoặc cung bậc nhiều nhạc tính du dương khi chim hót. Rảnh rang thường dùng để áp đặt vào hoàn cảnh một kẻ đang quỡn, chẳng có việc mần, ngồi chơi xơi nước, nhàn cư vi bất thiện… Đối cực với nó là lu bu, là đầu bù tóc rối, là cày 2 jobs, với over-time các thứ bở hơi tai.

Lên non đốn củi đụng chỗ đốn rồi
xuống sông lấy nước gặp chỗ cát bồi khe khô.

Hoài công! Nói kiểu mấy ôn mệ thuở xưa: Làm cho lắm tắm cũng ở lổ (trần văn trụi). Có công ăn chuyện mần thì mệt mà rảnh rang đôi khi cũng làm cho oải. Lo toan. Không ăn không ngủ để đi tới chung cuộc: Mô có mần được chi!

Đôi khi mất ngủ, rảnh rang nằm nghĩ ngợi, việc viết lách lung tung xèng của mình cũng chẳng khác kẻ gánh đôi thùng thiết đi xuống một dòng sông đang gặp hạn ngổn ngang cát đá. Phải mà còn đọng một vũng thì sẵn lòng múc ánh trăng vàng đổ hắt đi cho khỏi tiếc công. Nào khác gì đứa tiều phu mông muội đứng dưới rừng lá mù bay. Không nghe tiếng chim khôn hót cô quạnh, và mình rõ là người dại từng nói tiếng cộc cằn khó nghe.

Cô nhân tình bé nhỏ thuở đầu đời luôn phê bình trong những cái email đầy cao hứng mang nội dung trách cứ kẻ u mê xa ngái. Thiếu đường bị cô mắng là đồ phản động. “Cam sành lột vỏ còn chua, thương em còn nhỏ anh cua để dành”. Sai lầm, đánh hỏng một nước cờ, thay vì kéo pháo về phòng ngự lại ùn đẩy con tốt sang sông tạo cơ hội cho kẻ khác đốn ngã cây quế đơn lẻ giữa rừng tà nhiễu loạn. Cam sành thành bưởi thành thanh trà thành ngực khủng. Thành gia thất thành đầu bù tóc rối và điện thư mới hoan hỉ báo tin vừa thành bà nội. Chao ôi thời gian, thoắt cái nó xoá sạch những thơ mộng rồi bày biện ra bao bạc lòng. Bà nội nói, Huế chừ thay đổi dữ lắm, rứa khi mô mới giỏi chân về? Thay vì khoe ảnh đứa cháu cưng, bà nội gửi tấm hình một cô gái tóc thề đang đạp xe đi giữa phố mà trong tay nắm bộn một khoảng tiền. Không quên chú thích bên dưới: Chỉ có ở Huế!

Một sự hãnh diện? Nói tới nỗi yên bình riêng biệt của cố đô? Ở Hà Nội, ở Sài Gòn hả, ánh đao vung lên, xoẹt một đường hàn khí buốt bên tai rồi thì cánh tay nắm tiền đoạn lìa khỏi thân khổ chủ trong một chợp mắt. Tiền mất tật mang trong sát na nằm mộng cũng chẳng ngờ. Đau đớn tới độ nước mắt không thoát chảy ra được. Cứng thây.

Nguyễn Trãi gọi Huế là “phên dậu ở phía Nam”. Lê Lợi thì bảo: “Vùng đất ấy là lòng dạ của ta”. Bà huyện Thanh Quan trải lòng:

“Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
thành cũ lâu đài bóng tịch dương”.

Nguyễn Bính than:

“trời mưa ở Huế sao buồn thế,
cứ kéo dài ra đến mấy ngày”.

Đông Hồ động lòng:

“Gió chiều vương áo nàng Tôn Nữ
Quai lỏng nghiêng vành chiếc nón thơ”.

Sư Viên Thành làm mấy câu đậm chất thiền:

“Vầng trăng núi Ngự, nước sông Hương
chưa đi tới đó hận muôn đường
khi đã tới rồi không gì lạ
vầng trăng núi Ngự, nước sông Hương”.

Huệ Phổ trong bài Mạt Lị Từ, tuy nói về hoa nhài nhưng liên tưởng ra ảnh hình đất Thần Kinh:

“Vẻ như tuyết điểm đẹp dung nhan
một sợi hoa quanh búi tóc quàng
thức giấc, mùi hương đâu lạnh thoảng
nửa lầu trăng xế, nửa lầu sương”.

Toàn bộ nét cổ kính ấy có còn không? Dĩ nhiên mất. Có những đổi thay làm người ta hân hoan và có những thay đổi làm người ta xót xa trong câm lặng. Trả lời email cho “bà nội”, mình chỉ chép lại bốn câu của Kim Thánh Thán sáng tác khi ông tạm trú một đêm trong miếu hoang:

“Chung hưởng tiệm dĩ tịch
trùng ư Phật diện phi
bán song quan dạ vũ
tứ diện quải tăng y”.

Y như một black mail, “bà nội” thêm bực mình về cái thói ỡm ờ của thằng bồ cũ. Ai hiểu sao thì hiểu là sai lập trường, phải Ngô ra Ngô Sở ra Sở sắn ra sắn khoai ra khoai, qua lâu rồi thời nhá cơm độn. Mình đùa với bà nội, lỡ có người bắt gạo nấu hoài mà chẳng thành cơm thì sao, cháo không ra cháo hồ không ra hồ. Còn ôm vết thương lòng sâu đậm đến thế sao? Mình có o con gái học sư phạm “mắt chưa vương lệ sầu” dung mạo giống y như mình thuở nọ, có ưa không? Sao nhẫn tâm loạn ngôn ra thế?

Tạm dịch nhé:

“Im vắng mọi tiếng động
mặt Phật chấp chới bóng côn trùng
mưa đêm khép hờ cửa
bốn vách máng đầy áo sư”.

Bà nội viết, mình thích đọc những lá thư ngắn, trao đổi trong chừng mực như vậy thôi. Mình từng xem những bài viết dài của bạn, thường thì nó sa đà vào những thứ cấm kỵ, tỉ như nói xấu nhà nước quá cũng không nên, đôi khi nó làm cản trở việc tao phùng của chúng ta mất.

Trả lời bà nội, mình dùng hai câu ca dao xét thấy có chút trừu tượng “ai hiểu sao thì hiểu”:

Con ai đem bỏ chùa này
A di đà Phật con thầy thầy nuôi

Mình đã bỏ công viết, đã vắt óc nhào nặn ra, toàn là của chùa. Bá tánh thì có cả trăm bao tử khác nhau, chê mặn chê nhạt là điều dễ hiểu, không ai hạp bụng mình cũng chuyện tất nhiên; nhưng người mình từng thương yêu từng lậm bùa mê thuốc lú mà chê mình là phường phản động thì e phải “A di đà Phật con thầy thầy nuôi”.

Mình đã chẳng mần chi được người ấy thời trai tráng thì giả thử đóng vai Việt kiều hồi hộp áo gấm về làng e cũng không mần được chi. Lại tái diễn cái màn xoay mòng vòng Kim cô; lên non đốn củi với lại xuống sông lấy nước. Củi nằm toàn bộ trong tay lâm tặc, nước thì sắp cạn vào tay Trung quốc. Đụng chỗ đốn rồi và cát bồi khe khô. Trần tình có nhiêu đó thôi cũng bị “tình cũ nghĩa xưa” chì chiết rằng chao đảo lập trường với lại mất phương hướng. Đành buông thả tâm trạng theo Đồng Đức Bốn:

“tôi giờ xa cách bao nhiêu
đem thơ đổi lấy những chiều tương tư”.

Nhắm ăn được không? Hay bắt chước Đạo Tiềm, bạn của Tô Đông Pha:

“Bế môn toạ huyệt nhất thiền sáp
đầu thượng tuế nguyệt không tranh vanh”.

Tuệ Sỹ dịch ra:

“Khép cửa hang sâu một giường thiền
trên đầu năm tháng trôi chênh vênh”.

Ôi chao cái chữ chênh vênh kia nó nói lên được biết bao điều!

Nếu không chênh vênh thì giờ đây mình cũng thành “ông nội” như ai kia. Ông nội từ khuya, từ đời tám hoảnh!

Thế đấy thế đấy! Thành cũ lâu đài bóng tịch dương. Buồn làm chi Công Tằng Tôn Nữ Huế ơi!

Hồ Đình Nghiêm
Nguồn: Tác giả gửi

Đã đóng bình luận.