Archive for the ‘Đàm Trung Pháp’ Category

Đàm Trung Pháp

Mùa hè 1959 đã mang lại cho tôi một niềm vui rất lớn, khi tôi được chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và cơ quan viện trợ Mỹ USAID cấp cho một học bổng mang danh đầy kỳ vọng là LEADERSHIP SCHOLARSHIP để du học tại Mỹ, sau khi tôi đậu tú tài toàn phần ban văn chương với hạng danh dự và đạt điểm cao trong kỳ thi tuyển học bổng toàn quốc do USAID tổ chức bằng tiếng Anh.
(more…)

Đàm Trung Pháp
Nhận Định của tác giả trong buổi ra mắt Tuyển tập Tại Dallas Ngày 6 Tháng 3 Năm 2011

Tuyển Tập CHUYỆN XA GẦN* của Nguyễn Ngọc Bảo do Hội Văn Hóa Khoa Học Việt Nam ấn hành tháng 10 năm 2010 là một tác phẩm rất hay, rất bổ ích, rất đáng đọc. Đây là một tuyển tập có nội dung đa dạng được trình bầy qua một văn phong sâu sắc, uyên thâm, minh bạch, duyên dáng, và đầy nhiệt tình. Mục lục của cuốn sách đọc lên như một thực đơn chữ nghĩa khó chống cự cho những tâm hồn yêu văn học. Nào là Sân trước một cành mai; Hoa đào năm ngoái. Nào là Xã hội chủ nghĩa Việt Nam qua ca dao và vè trào phúng; Bút Tre: Dòng thơ phản kháng độc đáo. Nào là Truyện Kiều trong lòng người di tản; Bói Kiều. Nào là Quang Dũng: Thơ, người, và kỷ niệm; Năm nhà thơ nổi tiếng của Nhân Văn Giai Phẩm. Nào là Đau lòng tử biệt, vân vân. Quý vị có thể đọc các bài viết hấp dẫn này theo thứ tự nào cũng được mà không sợ bị hụt hẫng.
(more…)

Đàm Trung Pháp

Theo tác giả Trần Ngọc Ninh thì CƠ-CẤU VIỆT-NGỮ (Quyển I) đã ra đời hơn 40 năm tại quê nhà, mới đây được cập nhật hóa và tái xuất bản tại Mỹ với sự trợ lực của anh chị em trong Viện Việt Học (VVH), nhất là ông Vương Huê. Đây là cuốn đầu tiên (chủ đề: Sự thụ đắc ngôn ngữ) trong toàn bộ gồm bảy quyển. Quyển II (Từ N (danh từ) và các dạng vị phụ thuộc tiền-N: dạng vị q) cũng đã được VVH tái xuất bản năm 2009. Quyển III (Từ V (diễn thuật từ) và các dạng s, t, đ phụ thuộc tiền-V) đang được VVH chuẩn bị tái xuất bản. Được biết cơ quan văn hóa này cũng có dự định xuất bản các quyển còn lại trong tương lai, gồm Quyển IV (Từ A (cận từ): AA, AV, và AA), Quyển V (Từ PRO-X (đại từ): PRO-N, PRO-V, và PRO-A), Quyển VI (Đoạn dạng u, v, x, y, z), và Quyển VII (Cú pháp học).
(more…)

Đàm Trung Pháp


Kiều – Tranh Mai Thu

Thi hào Nguyễn Du ra đời trong hậu bán thế kỷ 18. Tôi thường tự hỏi có phải trong thời điểm ấy Thượng Đế đã nổi hứng rộng lượng và công bình mà ban cho nhân loại những thiên tài văn chương xuất chúng chăng? Như Goethe sinh năm 1749 tại Đức Quốc, Nguyễn Du sinh năm 1765 tại đất nước chúng ta, Chateaubriand sinh năm 1768 tại Pháp Quốc, và Wordsworth sinh năm 1770 tại Anh Quốc. Goethe, đệ nhất văn hào dân tộc Đức, năm mới 25 tuổi đã viết cuốn truyện tình bi đát mang tên DIE LEIDEN DES JUNGEN WERTHERS (Những nỗi ưu sầu của chàng trai trẻ Werther) để nói về mối ưu sầu thực sự của chính ông: Goethe đã gặp và yêu say đắm trong tuyệt vọng một phụ nữ đã đính hôn với người khác. Câu chuyện lãng mạn và bi thảm ấy khiến ông lẫy lừng danh tiếng khắp Âu Châu và cũng làm cho một vài giai nhân đa sầu đa cảm đang thất tình giống người trong truyện nhảy xuống hồ tự tử mà trong tay còn nắm chặt cuốn tiểu thuyết kia! Chateaubriand có thể được coi là nhà văn tiên khởi của trào lưu văn chương lãng mạn nước Pháp qua cuốn tiểu thuyết ATALA, một câu chuyện vừa buồn vừa mãnh liệt đam mê trong khung cảnh thiên nhiên rực rỡ của rừng núi Bắc Mỹ, một nơi mà Chateaubriand chưa từng thăm viếng và chỉ được làm quen với các sắc dân da đỏ qua sách vở. Và Wordsworth, đệ nhất thi nhân bên trời Anh Quốc, năm chưa đến 30 tuổi đã cùng Coleridge xuất bản tập thơ LYRICAL BALLADS, mở đầu cho thời đại thi ca lãng mạn trong văn học quốc gia ấy. Wordsworth say mê thiên nhiên và có biệt tài dùng ngôn ngữ bình dị dễ hiểu để diễn tả những cảm xúc tràn bờ trước vẻ đẹp của rừng, của núi, của giai nhân. Tôi nhớ mãi những câu thơ sau đây của Wordsworth để tả một kiều nữ bí mật sống giữa thiên nhiên mang tên Lucy mà thi nhân ví như một bông hoa đổng thảo:

A violet by a mossy stone
Half-hidden from the eye
Fair as a star, when only one
Is shining in the sky
(more…)

Đàm Trung Pháp

Anh Phạm Quốc Bảo quý mến,

Cảm kích trước lời ước nguyện của anh ghi ngay ở đầu cuốn sách là anh “sống được đến từng tuổi này chả còn mong ước gì nữa cả ngoài ý thích được nhẩn nha tâm sự với nhau” (trang 4), tôi mượn lá thư này để chia xẻ với anh những điều tôi suy nghĩ khi đọc xong tác phẩm mới nhất của anh, Khuất Rồi Mấy Bóng Chim Di. Mong anh coi nội dung lá thư này như những tâm cảm về những điều anh viết, từ một người bạn chân thành của anh.
(more…)

Đàm Trung Pháp

Một mục đích quan trọng của ngôn ngữ là để giao hảo. Muốn đạt được mục đích ấy, ngôn ngữ phải ngọt ngào, phải lễ độ để đẹp lòng người nghe. Đồng nghĩa với động từ “nói ngọt” của tiếng Việt, động từ “sweet-talk” trong tiếng Mỹ cho thấy rằng sự khôn khéo trong lời ăn tiếng nói rất có hiệu nghiệm trong việc thuyết phục người khác làm những chuyện có lợi cho mình — điển hình như lời một người Mỹ khôn ngoan giải thích với bạn bè tại sao ông ta mới được tăng lương: “Well, I simply sweet-talked my boss into giving me a pay raise and she did!” Người Mỹ cũng có khuynh hướng dùng uyển ngữ để làm nhẹ bớt đi những ý nghĩ tiêu cực của ngôn từ. Thí dụ, thay vì dùng chữ “garbage collector” để diễn tả một công việc làm không được trọng vọng cho lắm, người Mỹ sử dụng chữ “sanitation engineer” nghe dễ thương hơn nhiều. Họ cũng rất mặc cảm với tuổi già, cho nên khi áp dụng để tả một người tuổi đã cao, tính từ “old” làm người nghe buồn lòng không ít. Vì vậy các bậc cao niên tại Mỹ được gọi là “senior citizens” một cách trịnh trọng. Người Mỹ da đen không thích người khác gọi mình bằng màu da, nên ngày nay các chính trị gia khôn khéo gọi họ là “African Americans.”
(more…)

Đàm Trung Pháp

Thành kiến nông cạn cho rằng Đức ngữ chói tai, vụng về và nặng nề đã bị thi ca trữ tình Đức ngữ phản bác một cách hùng hồn bằng bản chất uyển chuyển, linh động, và đầy nhạc tính của nó. Chính bản chất này đã giúp thơ trữ tình Đức ngữ đi sâu vào di sản văn học nhân loại, qua một cơ duyên hy hữu: sự thăng hoa của loại thơ chan chứa tình cảm này xảy ra cùng lúc mà âm nhạc đang đi đến tột đỉnh tại Đức Quốc. Mối liên kết diệu kỳ giữa chữ nghĩa và âm điệu trong thế kỷ 18 và 19 đã tạo nên những bài ca bất hủ cho các danh tài âm nhạc Brahms, Schubert, và Schumann. Trong bài viết này, tôi mời quý bạn đọc một vài bài hoặc đoạn thơ chan chứa tình người, trong đó –theo lời Hermann Hesse (giải Nobel văn chương 1946)– các thi sĩ sẵn sàng “gọi tên từng con thú từng phiến đá với tất cả yêu thương.” Vì biết rõ “dịch là phản,” tôi mong quý bạn đọc thông cảm cho rằng các câu chuyển sang tiếng Việt bằng thơ tự do, ngay bên dưới các đoạn thơ tiếng Đức, chỉ là một cố gắng đầy thiện chí mong diễn tả trung thực ý nghĩa các đoạn thơ tiếng Đức nguyên bản đó mà thôi.
(more…)

Đàm Trung Pháp

Tâm sự người viết: Trong số những ngôn ngữ tôi đã học hỏi, tôi mê tiếng Ý nhất vì lối phát âm nghe thật sướng tai của nó, với năm mẫu âm căn bản “a”, “i”, “u”, “e” và “o”. Ba âm đầu phát âm như tiếng Việt, và hai âm sau cùng thường phát âm giống “ê” và “ô” trong ngôn ngữ chúng ta. Những mẫu âm nhiều nhạc tính này xuất hiện ê hề trong mọi vị trí, nhất là các âm “i” và “e” ở vị trí sau cùng của các danh từ và tính từ số nhiều. Khi hai tình nhân người Ý muốn cho nhau biết rằng họ yêu nhau lắm lắm thì họ thốt lên “Amore mio, io ti voglio molte bene”, nghe có khác nào một câu ca thánh thót? Động từ “voglio” phát âm là vô-li-ô (chữ “g” coi như thừa) thực ra có nghĩa là “tôi muốn” đấy, bạn ạ. Thêm vào đó là những kết hợp rất êm tai của một số tử âm và mẫu âm, chẳng hạn khi tử âm “s” nằm giữa hai mẫu âm (như trong hai chữ “musicale” và “melodioso”) thì nó phát âm như âm “d” trong chữ “du dương” của chúng ta; tử âm “c” khi đi với “i” và “e” thì đọc như “chi” và “chê” trong tiếng Việt; và các âm tiết “gia” và “gio” được phát âm mạnh mẽ đôi chút hơn là “gia” và “giô” trong tiếng Việt. Thực vậy, khi muốn diễn tả ý nghĩ “Trong vườn hoa văn chương Ý có nhiều thi nhân trữ tình” thì người dân thành phố La Mã sẽ rót mật vào tai người nghe như thế này: “Nel giardino letterario d’Italia ci sono molti lirici”. Mới chỉ nghe người thường nói tiếng Ý mà đã mê như thế thì khi Nàng Thơ nói tiếng Ý không hiểu mình còn mê đến đâu! Tôi đã tìm đọc một số thơ trữ tình của các đại danh Cavalcanti, Dante, Petrarca, Boccaccio, và Tasso. Đó là những bài thơ diễm lệ, đau khổ nhiều hơn sung sướng, được làm mặn nồng thêm lên vì bóng giáng những giai nhân mang tên Beatrice, Francesca, Laura, Fiammetta, và cả một nữ mục tử không tên. Vì chưa bao giờ thấy hình ảnh các Nàng Thơ ấy trong sách vở, tôi đành phải tưởng tượng ra nhan sắc họ vậy. Các nàng hao hao Nữ Thần Ái Tình Venere (Vệ Nữ) trong thần thoại La Mã chăng? Hay các nàng từa tựa minh tinh màn bạc Gina Lollobrigida khi còn son trẻ? Chỉ có Trời biết. Mời bạn cùng tôi thưởng thức một chút thơ trữ tình Ý ngữ, trong đó thấp thoáng những bóng giáng yêu kiều đã một thời làm cho những nhà thơ ấy đứng ngồi chẳng yên.
(more…)

Đàm Trung Pháp

Ai trên đời mà không âm thầm tiếc nuối tuổi trẻ qua mau, nhưng đã mấy ai để lệ rơi tầm tã trong những lúc bất thần khóc than cho tuổi thanh xuân ra đi không trở lại như nhà thơ Rubén Darío người xứ Nicaragua khoảng đầu thế kỷ 20? Darío ví tuổi xanh như một “kho tàng thần thánh” (divino tesoro) mà sự mất đi là một tiếc thương vô hạn nằm sâu trong tiềm thức, mặc dù cuộc đời nhiều lúc chuân chuyên và nhà thơ chưa hề “gặp một công chúa nào để ngợi ca” (ya no hay princesa que cantar). Vậy mà đoạn thơ bốn câu sau đây, được nhắc đi nhắc lại năm lần, trong danh tác “Bài ca mùa thu trong mùa xuân” (Canción de otoño en primavera) đã làm bao thế hệ độc giả mủi lòng vì mức độ thiết tha của chúng:

Juventud, divino tesoro,
ya te vas para no volver!
Cuando quiero llorar, no lloro …
y a veces lloro sin querer …

Tuổi thanh xuân, kho tàng thần thánh,
đã ra đi để chẳng trở về!
Khi muốn khóc, ta không khóc nổi …
nhưng nhiều khi bất chợt lệ rơi …
(more…)

Đàm Trung Pháp

   
Jacques Prévert (1900-1977)Nguyên Sa (1932-1998)

Hai nhà thơ cận đại mà tôi ái mộ là Jacques Prévert (1900-1977) và Nguyên Sa (1932-1998). Hai thi sĩ này giống nhau ở chỗ họ sử dụng tài tình những chuỗi liệt kê (énumérations) trong thơ để làm sáng tỏ tối đa nội dung.  Đó là lối viết lớp lang trong trật tự, điển hình như trong câu ca dao quen thuộc “một thương tóc bỏ đuôi gà, hai thương ăn nói mặn mà có duyên, ba thương má lúm đồng tiền” của chúng ta.  Tôi võ đoán Prévert đã ảnh hưởng không ít đến Nguyên Sa khi nhà thơ này du học tại Paris vào những năm đầu thập niên 1950. Nếu những bài thơ tình dễ đọc và dễ cảm thông như những lời nói thường ngày khiến Prévert lẫy lừng danh tiếng bên Pháp thì những bài thơ tình trinh nguyên đẹp như mơ của Nguyên Sa cũng đã mang lại cho ông rất nhiều người ái mộ tại Việt Nam.
(more…)

Đàm Trung Pháp

Mỗi bài thơ “haiku” (phát âm lối Hán Việt là “bài cú”) của người Nhật Bản là một tiểu vũ trụ thu gọn trong vẻn vẹn 17 âm tiết. Trong cái hạn hẹp tối đa ấy, nhà thơ diễn tả cảm nghĩ của mình trước thiên nhiên và còn cho người đọc thoáng thấy một hình ảnh vĩnh cửu phát hiện qua một cảnh trí thông thường chóng phai mờ. Về điểm này thì hình như mỗi nhà thơ lớn, ở phương trời nào cũng vậy, đều có đôi chút “tâm hồn haiku” – như khi William Blake đã thấy cả vũ trụ trong một hạt cát, cả thiên đường trong một đóa hoa dại (“to see a world in a grain of sand, a heaven in a wild flower”) hoặc như khi Đinh Hùng mới chỉ nhìn vào đôi mắt lưu ly của Kỳ Nữ mà đã “thấy cả bóng một vầng đông thuở trước, cả con đường sao mọc lúc ta đi”!
(more…)