Phan Nhật Nam
Quê Nội thôn Nại Cửu
Ðất khổ cát hoang vu
Trông khô giòng Thạch Hãn
Vần vũ gió Lào sang.
Mưa một năm hai mùa
Xói mòn trơ đá núi
Lũ sầm sập nửa ngày
Lụt tràn sâu lũng rú.
Nắng hạn tiếp mưa nguồn
Ðất cày không lên luống
Thâu đêm trần mồ hôi
Ðáy gầu khua đá cạn.
Ðau đớn sâu tiếng nói
Xót xa hằn khốc âm
Suốt một đời sợ đói
Từng ngày…
Lần trăm năm.
Sinh quán làng Phú Cát
Im mát bóng nhà thờ
Sông Hương ôm hai bờ
Ðêm nằm nghe nước dạt.
Dẫu thanh hàn khốn khó
Xóm nhỏ rộn tiếng cười
Bóng tối nhọ mặt người
Lời cầu kinh phơi phới.
Cơ cực lúc bảy tuổi
Khó khăn từ nằm nôi
Hằng lớn lên với đời
Tình thương nâng chắc thép.
Thanh xuân nơi vùng biển.
Ðà Nẵng…
Ôi tuyệt vời,
Sóng đùa khói lên trời
Dội lòng thơ muôn tiếng.
Biết yêu những đêm trăng
Nằm nghe con nước dậy
Trăng giãi bọt sóng vàng
Vũ trụ nghiêng về sáng.
Lắng nghe triệu tiếng đàn
Hoà âm ngàn sóng chuyển
Hiểu tận nghĩa vô thanh
Buổi đêm tàn biển lạnh.
Ba Quê Hương Miền Trung
Ðơn sơ yêu chất ngất
Giọt máu sữa mẹ gầy
Héo hon phơi lồng ngực.
Bão nổi từ cuối Ðông (1)
Xương khô đùn xác lạnh
Lênh láng đất đỏ hồng
Máu nhuộm đẫm giòng sông
Lửa ! Lửa ! Lửa !
Huế bật khóc đêm Xuân (2)
Giải khăn tang chít vội
Huế vật vã kinh hoàng
Mắt đỏ ngầu máu sôi.
Ðất Ngự Bình tươi rói
Ươn ướt màu thịt da
Sông Hương mờ hơi khói
Rờn rợn bóng hồn ma.
Ðau cau mặt Thích Ca
Sân chùa vang khóc kể
Nát lòng Maria
Cung Thánh lềnh ứa lệ.
Huế thấp thoáng bóng người
Qua hè phố kín cửa
Huế chập choạng ma trơi
Oan nghiệt nặng kiếp Hời !!
Sân trường âm tiếng xẻng (3)
Ngật ngật thở người rên
Hầm hập tầng đất nện
Vất xác ấm chồng lên.
Im lặng chiếc cầu đen
Trên con sông nín nghẹn
Huế hấp hối không đèn
Ðêm chập chùng bóng đêm…
Lửa ! Lửa ! Lửa !
Lửa dậy từ Hải Lăng,
Giăng giăng triền cát trắng
Lửa phần phật nung rền.
Ðỏ cọng cỏ, đồi sim.
Bao xác người cháy đen
Dọc dài Ðường Số Một
Xác mẹ chồng xác con.
Võ vàng màu lửa nghẹn
Dòng Ðá Chảy Mồ hôi (4)
Sôi sục hơi tử khí
Ðồi Thánh Mẹ Sầu Bi (5)
Nhầy nhầy thây kinh dị.
Thây thê thảm quắp co
Ðặc quánh vũng máu đỏ
Ðất sền sệch thịt người
Lặng nở trời nắng to.
Quảng Trị nâng hẳn lên
Ðạn bom đùn trở lại
Hoả tiễn chập đợt hai
Lửa thép xối xuống mãi
Phải đây trường Nguyễn Hoàng?
Khối bê tông cốt thép
Lay lắt cành gai tre
Ðá vỡ tan sắc cạnh
Chập choạng bầy kên kên
Ðiêu tàn giăng tê lạnh
Lũ chó đói tru rền
Trăng đỏ màu máu tanh.
Lửa ! Lửa ! Lửa !
Lửa không ngừng điêu linh
Chết không thôi ái ngại
Lửa vượt đài Hải Vân
Chết ngập đầy Bến Cảng.
Ôi…Xuân tàn “Bảy-lăm” (75)
Quan tài tràn Ðà Nẵng
Ðà Nẵng nặng thây người
Mùi chết đậm giăng giăng…
Người chết đang khi nói
Ðầu gối lên sóng to
Bé chết miệng hé cười
Tưởng đùa trên lưng bố.
Chết nổ giữa đường phố
Tủi hổ ngậm tiếng rên
Trôi theo sóng bổ ghềnh
Thân mắc ngang ghè đá.
Giải cát trắng Tiên Sa
Se khô vũng máu ứa
Ðau đớn hồi chuông chùa
Hồn oan nào đi xa…
Hồn ngong ngóng Phương Nam
Xót xa lần chết thảm
Hồn biền biệt vô hồi
Mờ mịt gió trùng khơi.
Ðau quá Quê Hương ơi !
Người bật giòng khóc muộn
Ðêm lạnh chốn cuối đời
Ðất Bắc …
Trời xa xôi
Ðất Bắc.
Nơi ngục tối,
Vọng tiếng biển ngày xưa,
Vô cùng rung vời vợi,
Giữa dạt dào âm mưa.
Phan Nhật Nam
Ðầu Mùa Xuân 1985 – Thanh Hoá, Mười Năm thảm chết Quê Hương
Nguồn: Một thời Phan Châu Trinh Đà Nẵng
(1) – 12, 1961 Mặt trận giải phóng Miền Nam thành lập
(2) – Ðêm Giao Thừa Mậu Thân, Tết 1967-1968
(3) – Trường Gia Hội, một của những địa điểm chôn sống người khi Việt Cộng rút khỏi thành phố Huế, Tháng Hai, 1968; nơi chốn PNN học vỡ lòng.
(4) – Sông Thạch Hãn, chảy ngang thị xã Quảng Trị, thành phố cực Bắc của Miền Nam.
(5) – Ðồi La Vang, Thánh tích Công Giáo


















