Trangđài Glassey-Trầnguyễn
Khu xóm này thật nhộn nhịp. Phố xá một chiều, nhưng xe cộ tấp nập. Nhà cửa cũ kỹ, xập xệ, và có căn bị bỏ hoang. Ngay cả con phố chính cũng không có gì ‘oách’ cả. Chỉ được cái hàng quán san sát, chen chút, tranh nhau tí không gian hẹp, như những phố nhỏ ở Sàigòn. Khách bộ hành cứ biến mất vào những quán ăn bình dân, tiệm nail, chợ rau quả tươi, hay tiệm 99 xu. Rồi lại tái xuất hiện, lập lờ trên vỉa hè. Nhịp sống ở đây như thể thật thảnh thơi.
Là khách tạm cư, nên tôi không sắm sửa vật dụng trong căn hộ nhỏ, mà chỉ tạm kê một cái giường, và một cái bàn để gõ phím – đúng hơn, là thu âm bài vở để gửi cho người đánh máy thuê. Tay tôi bị đau mấy năm nay, không đánh máy được. Vả lại, một thân một mình, sống đơn giản, đỡ mệt, vài hôm dọn đi, cũng khỏe. Nên trong cái tinh thần ‘tạm cư’ ấy, tôi cũng không có nhu cầu đi lại và biết nhiều về môi trường xung quanh, ngoại trừ lúc tôi đi chợ, đi thư viện, hoặc chạy ra eo biển để hưởng không khí trong lành.
Thành phố nhỏ, và đẹp. Cây cối xanh um. Tôi may mắn đến đây vào mùa hè. Cô quản thủ thư viện mách với tôi rằng thành phố này mệnh danh là Nữ hoàng của vùng hạ lưu sông Hắc Sơn. Gần eo biển, nơi nước biển và nước sông giao nhau, là những ngôi nhà tỉ phú. Oái oăm một nỗi, thấy sông thấy nước, cây xanh cỏ dại, thì tôi nhớ Việt Nam. Mà quê tôi thì làm gì có biệt thự tỉ phú. Hóa ra, khi ở Việt Nam, tôi được thiên nhiên đãi ngộ với một hoàn cảnh sống hết sức lý tưởng: môi trường trong lành, phong cảnh hữu tình.
Không gian là một điều khó hiểu và lạ lùng. Chỉ trong năm phút đi bộ, thì tôi đã qua hai thế giới khác biệt. Từ những căn nhà dở khóc dở cười ở khu ổ chuột, đến những biệt thự mỹ miều, chỉ cách nhau một hòn sỏi ném đi. Những căn nhà cổ hai tầng lầu (và tầng hầm) làm tôi nghĩ đến những đại gia đình người Việt, sống quây quần với nhau, tam đại đồng đường. Tôi chạnh nhớ mái ấm gia đình, và đến những giây phút thân thiết bên bếp cơm chiều. Mai này, có gia đình, tôi sẽ tìm một căn nhà có đủ chỗ cho con cái cháu chắt chút chít của tôi. Mong sao tôi sống lâu để được làm bà cố bà sơ, hay bà sở bà sờ càng hay.
Mỗi lần đi thư viện, tôi hay tạt ngang quầy rau quả tươi. Sau tuần lễ đầu, tôi khám phá ra ba quầy gần nhau trên phố. Một quầy bán rẻ hơn hẳn, nên tôi hay ghé hơn. Nhân viên giúp việc đều là người Mễ Tây Cơ. Họ nói tiếng Mễ với nhau, và ông chủ trẻ người Đại Hàn cũng vậy. Hôm tôi đi tìm hoa artisô để mua uống giải nhiệt mùa hè, nhân viên gọi ông chủ ra, tôi mới biết. Tôi vẫn thường thấy anh lui tới quanh tiệm, sửa bó cải, xếp lại những quả dưa, quả cà. Mồ hôi nhễ nhại, nhưng lúc nào anh cũng tươi cười với nhân viên.
– Ồ, hoa artisô mùa này đắc lắm, nên tôi không đặt hàng. Chị mua làm thuốc à?
– Cũng gần như vậy. Không quan trọng đâu, thôi cám ơn anh.
Anh cười cái nụ cười hồn nhiên của một thanh niên Á Châu, nó có cái gì đó chân chất và thân thiết, tuy không phải là người quen. Anh hứa sẽ mua hoa artisô cho tôi nếu gặp hàng. Tôi quay sang, thấy sạp dưa hấu vỏ xanh đen, như dưa Tết ở quê. Mừng quá, tôi chạy ngay lại. Người phu khuân vác trong tiệm vội vàng nép qua khi thấy tôi đến. Những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán ông, lấp lánh trong ánh đèn. Tôi chợt muốn nói gì đó với ông, nhưng lòng lâng lâng khôn tả. Như lần đầu được về thăm quê sau mấy năm trời tỵ nạn, tìm lại được cuộc đời thứ nhất của mình. Cái cảm giác mà học thuật và lý thuyết khoa học đã đóng gông trong những ngày tôi miệt mài kinh sử. Ôi, cái thế giới chữ nghĩa kia sẽ ra như thế nào nếu người ta quên nhìn và quên thở?
Tôi mang quả dưa hấu đến quầy tính tiền. Cô gái trẻ ít nói này rất lanh lẹ. Tôi vẫn đến quầy thu tiền của cô. Tôi ngạc nhiên khi cô bắt chuyện.
– Chị ở trong khu chung cư mới xây phải không?
– Sao em biết vậy?
– Tại hôm qua em thấy chị đạp xe từ trong đó ra.
– Thế à? Xin lỗi nghe, chắc lúc đó chị không để ý, nên không thấy em.
Rồi hơi rụt rè, cô bảo:
– Có ai cần lau dọn nhà cửa, chị chỉ dùm em. Trước giờ em hay đi xe buýt qua mấy thành phố bên cạnh để dọn dẹp nhà cửa mướn. Nếu có người ở gần đây mướn em, em có nhiều thì giờ cho con của em hơn. Nó được năm tháng rồi.
Tiếng Anh bồi của cô, cộng với cái nét van lơn, hợp lại thành một bài ca dao mà tôi thấy sao quá đỗi đậm đà. Không biết người mẹ trẻ này di cư từ đâu đến, hay gia đình cô đã sống ở khu ổ chuột này từ bao nhiêu đời rồi. Cô còn rất trẻ, nên tôi tưởng cô là sinh viên trung học đi làm thêm mùa hè. Thấy cô nói tiếng Anh khó khăn, tôi hỏi bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của cô:
– Em tên gì?
Nhưng như thể khẳng định khả năng Anh ngữ của mình, cô không trả lời tôi bằng tiếng Tây Ban Nha:
– Em tên là Lupita.
Trong tiếng Tây Ban Nha, khi gọi nhau thân mật, thì thêm vào ‘ita’ cho nữ giới và ‘ito’ cho nam giới. Lupita. Tự dưng cô lại coi tôi là bạn, sau bao nhiêu ngày tính tiền cho tôi mà không nói dư một chữ nào ngoại trừ “Chào chị” và “Cám ơn.” Lupita lại nói thêm, trước khi tôi về:
– Em dọn nhà sạch lắm!
Tôi trước nay cứ ‘độc quyền văn hóa,’ vẫn đinh ninh là chỉ có người mẹ Việt Nam thương con nhất. Tôi cứ thấy qua bao trầm luân loạn lạc, mà các bà mẹ Việt Nam vẫn bảo bọc nuôi nấng bao thế hệ nên người. Chắc là tại vậy nên tôi nghĩ người mẹ Việt Nam thương con nhất trên đời: tại khổ quá, mà Mẹ vẫn lo lắng cho con tươm tất, thành nhân. Thương nhiều là ở chỗ cái khổ ấy. À, mà không được, nói như vậy thì các bà mẹ Việt ở Mỹ… thương con ít đi mất rồi! Vì ở đây thì ít khổ hơn ở Việt Nam. Vậy thì, thương con nhất là ở hoàn cảnh của mỗi người, theo cách thương của mỗi người. Tấm lòng một người mẹ đôi khi chỉ là cái suy tư làm sao kiếm được chỗ đi làm mướn gần nhà để có giờ cho con dại – tuy chính người mẹ ấy cũng còn rất dại.
Và từ lúc nào, tôi đã trở thành thường trú nhân ở đây. Mỗi lần đi qua tiệm đồ cũ Habitat for Humanity, những thiện nguyện viên trong đó vẫn hay gợi chuyện và hỏi xem tôi đã ổn định chưa. Một lần, tôi ghé mua giỏ tre để đựng len. Sau đó, cô học trò trung học Jessica đã để dành tất cả những giỏ mây khi có người mang đến. Tôi đi ngang, cô bé kéo ngay vào, như thể chắc chắn là tôi cần thêm năm bảy cái giỏ nữa. Và cái xe đạp cũ đưa tôi đi quanh, chỉ có 10 đô la, mà ông già Bill ở nhà kho của Habitat bán cho tôi, sợ tôi không dùng được. Trước khi tôi về, ông còn dặn dò:
– Con cần gì, cứ ghé đây, bác lo cho.
Ông nói tiếng Anh theo kiểu thập niên 60 của Mỹ, làm tôi nhớ những bộ phim trắng đen ‘tủ’ của mình. Tôi chợt hỏi: đâu là quê hương? Hai phần ba đời tôi ở bên kia bờ đại dương. Nhưng đất nước này đây, ngay cả những vùng đất tạm cư, cũng cho tôi ấm áp một niềm quê. Rồi khi tôi đi, tôi sẽ nhớ sạp cà, sạp dưa, nhớ sông nước hữu tình, nhớ đời người nhọc nhằn, nhớ những nụ cười mà tuy chúng nở trên những khuôn mặt không phải da vàng, vẫn cho tôi một cảm nhận hết sức máu mủ.
Trangđài Glassey-Trầnguyễn
Nguồn: Tác giả gửi


















