Hà Việt Hùng
Bài toán cuối cùng được viết trên bảng. Sắp đến giờ về, cô giáo Thủy bỏ mấy cuốn sách giáo khoa vào trong cặp. Cô nói với đám học sinh đang nhao nhao ở dưới lớp:
– Các em nhớ làm đầy đủ bài tập nghe? Tuần tới cô sẽ kiểm tra.
Cả lớp đồng thanh trả lời:
– Dạ.
Cô Thủy mỉm cười hài lòng. Cô nhìn xuống phía dưới, các học sinh của cô cũng đang thu dọn sách vở, chuẩn bị ra về. Một hồi chuông vang lên, báo hiệu giờ tan học. Học sinh bắt đầu lục đục ra khỏi lớp. Có em đi qua mặt cô, cúi đầu chào:
– Thưa cô, em về.
Cô Thủy chào lại:
– Chào các em.
Đợi cho đám học sinh ra hết, cô Thủy mới theo sau. Cùng với các giáo viên khác, cô vào văn phòng hiệu trưởng nộp sổ điểm. Cô hiệu trưởng Dung đang ngồi phía sau cái bàn rộng bày la liệt giấy tờ. Cũng như các nữ giáo viên khác, cô mặc áo dài, một chiếc áo màu vàng nhạt. Quanh cổ có một sợi dây chuyền bằng cẩm thạch. Trông cô trẻ và đẹp hẳn ra. Cô vui vẻ gật đầu chào mọi người mỗi lần họ đi vào văn phòng.
Cô Thủy đi vội ra chỗ dựng xe gắn máy. Cô chào người bảo vệ, rồi mở khóa xe, đạp máy chạy đi.
Mới chiều thứ Sáu, đường Sài Gòn đã đông nghẹt như kiến. Hàng ngàn chiếc xe đủ loại lạng lách nhau, bất chấp luật lệ giao thông, nào là xe gắn máy hai bánh, xe đạp, xe ba bánh và cả xe hơi. Khói xăng bay mù mịt. Những người chạy xe, đầu đội mũ bảo hiểm, miệng mũi che khăn tránh bụi, đang chạy qua chạy lại, tất bật, hối hả.
Cô Thủy chưa về nhà ngay. Cô phải chạy đi đón con. Cô có đứa con học lớp 7 ở trường trung học cơ sở. Nhờ hai trường ở gần nhau, cô đến đón con vừa kịp lúc. Cô chở con về nhà trên chiếc xe cũ kỹ.
Cô lái xe vào một ngõ hẻm. Gia đình cô ở trong căn nhà sàn kế bờ sông. Căn nhà chỉ có 3.5×7 mét dựng trên những cây cừ tràm. Những cây tràm này bề ngang chỉ bằng bắp tay đàn ông lực lưỡng. Chung quanh căn nhà được đóng hay được quây bằng những miếng thiếc, cạc tông, ván ép, cót tre…nghĩa là đủ thứ vật liệu “tự kiếm” hay mua với giá rất rẻ. Nền nhà là những tấm ván dài ngắn không bằng nhau, lộ ra những khe hở. Từ những khe hở đó, khi nước lên, người ta có thể nhìn thấy mặt nước đen ngòm cách chừng nửa thước bên dưới. Rồi những khi nước cạn, những khe hở đó lại là nơi để cho mùi bùn xông lên, có khi phảng phất, có khi nồng nặc. Căn nhà thiếu điều kiện vệ sinh, bị ô nhiễm nặng. Căn nhà, nếu đứng chơ vơ một mình, gia đình cô sẽ không dám ở. Cũng may, nó đứng co ro ở giữa hai căn nhà khác, một của ông bà Tám đã về hưu và một của cô Năm làm ở công ty may mặc thành phố. Thực ra căn nhà của cô đã dựa hẳn vào hai căn nhà kế bên. Nó giống như một đứa trẻ yếu ớt bệnh tật, cần sự che chở, nâng đỡ của cha mẹ hay của người lớn.
Cô Thủy dắt xe vào nhà. Dường như căn nhà hơi rung chuyển khi chịu thêm vài chục ký của chiếc xe. Cô đi thay quần áo rồi chuẩn bị nấu cơm cho gia đình. Chồng cô làm công nhân ở một công ty xây dựng, tối mới về.
Cô Thủy là giáo viên tiểu học. Cô đã gắn liền với “phấn trắng, bảng đen” 21 năm. Cô đã bỏ ra một phần đời không nhỏ trong “sự nghiệp trồng người”. Nhiều khi ngồi suy nghĩ, cô không hiểu tại sao cô lại có thể gắn bó được với nghề này. Chắc hẳn không phải vì đồng lương quá khiêm nhường mà nhà nước đã trả cho cô. Hàng tháng phải ngửa tay nhận mức lương vài trăm ngàn đồng, chắc hẳn những “kỹ sư tâm hồn” như cô đã phải chịu hy sinh quá nhiều. Đến như một “Tiến Sĩ” mới tốt nghiệp cũng thường chỉ lãnh không quá 3- 4 triệu đồng một tháng.
Bao nhiêu năm đi dậy hoc, cô Thủy thấy nền giáo dục Xã Hội Chủ Nghĩa ngày càng bi thảm. Đã nhiều lần Bộ Giáo Dục và Đào Tạo hô hào cải cách, nhưng nó vẫn dậm chân tại chỗ, nếu không muốn nói là đã thụt lùi. Nó như một cỗ máy cũ kỹ, ì ạch, rệu rạo, không sao đuổi kịp xã hội và sự mất giá nhanh chóng của đồng bạc. Đã vậy, hệ thống sách giáo khoa lại hủ lậu, không được cải tiến đúng mức, không được soạn thảo cẩn thận, nhiều chỗ còn bị xuyên tạc trắng trợn nhất lả các sách giáo khoa về lịch sử và văn học, mục đích chỉ để nhồi sọ những đầu óc còn ngây thơ, non nớt, vô tội.
Một tháng lương giáo viên của cô chỉ đủ sinh sống trong nửa tháng, còn nửa tháng kia cô đã phải “khắc phục” hay “tự biên tự diễn”. Nhiều lần cô đã muốn bỏ nghề, nhưng suy nghĩ không biết làm gì để sống, nên đành “phóng lao phải theo lao”. Trong số bạn đồng nghiệp của cô, có những người đã can đảm dứt bỏ được nghề nghiệp cũ, như cô Xoan đang có một đường dây buôn bán thuốc tây, hay thầy Kỷ trở thành công nhân xây dựng.
Để “tăng thêm thu nhập” hằng tháng, giống như một số giáo viên khác, cô phải “tranh thủ” mở lớp dạy kèm ở nhà. Nhờ vậy, đồng lương mới tạm “đắp đổi qua ngày”. Nhưng đây là một việc làm phi pháp. Bộ Giáo Dục – Đào Tạo nghiêm cấm giáo viên dậy thêm, và học sinh học thêm. Giáo viên nào muốn dậy thêm, phải làm đơn xin phép. Có phép mới được dậy. Vì việc dậy thêm khó khăn như vậy, nên đã xảy ra tình trạng “rình bắt” và “kỷ luật” giáo viên dậy thêm.
Bởi đồng lương ít ỏi và vất vả như thế của giáo viên, không ai ngạc nhiên khi sư phạm là một ngành ít người theo học nhất. Do vậy, tình trạng thiếu giáo viên càng ngày càng trầm trọng. Ở nhiều trường học, thỉnh thoảng lại thấy một giáo viên biến mất khỏi trường, hỏi ra mới biết người ấy đã tự ý xin nghỉ, đau ốm, vượt biên hay lấy bất cứ lý do nào đó để thoát khỏi ngôi trường mình đang dậy.
Trong khi đó, một “xã hội công bằng” theo mô hình xã hội chủ nghĩa không bao giờ có. Trong xã hội còn đầy rẫy những bất công. Không ít các “đầy tớ của nhân dân” đã làm đám cưới cho con hao tốn vài triệu đô, mua xe hơi giá vài trăm ngàn đến triệu đô một chiếc. Rồi còn rườm rà nhiều thứ lỉnh kỉnh khác nữa, mục đích chỉ là để phô trương, khoe của. Có đám cưới, cô dâu, chú rể đeo cả mấy chục lượng vàng vòng quanh cổ khi tiếp khách. Rồi tới chuyện một ông tướng, mọi người cứ nghĩ ông thanh liêm, cho tới ngày trộm viếng nhà ông, lòi ra ông có tài sản bị mất cắp lên tới cả triệu đô. Ông là tướng, không biết tiền đâu ra nhiều thế?
Bữa cơm trưa của hai mẹ con cô Thủy diễn ra nhanh chóng, đạm bạc. Một đĩa rau muống luộc, một chén chao nhỏ và một đĩa thịt kho. Nhưng thằng con cô không lộ vẻ gì buồn phiền cả. Nó ngồi ăn ngon lành và chỉ thoáng một cái là xong bữa. Có thể nó đã quen với sự thanh đạm của gia đình. Sau đó, nó nằm trên võng đọc sách, một lát sau quay ra ngủ. Giấc ngủ trẻ thơ đến thật dễ dàng. Nó thở đều và nhẹ, bên dưới mái tôn đang hầm hập hơi nóng mặt trời.
oOo
Hôm nay là thứ Bảy. Cô Thủy cho con đi học thêm Anh Văn ở một trung tâm ngoại ngữ gần nhà. Trung tâm này do Sở Giáo Dục Thành Phố tổ chức, nên có nhiều người theo học từ lớp vỡ lòng đến trung cấp. Với đồng lương ít ỏi của một giáo viên tiểu học, cô Thủy đã phải chắt bóp để đóng học phí cho con học thêm. Cô Thủy nhận thấy những năm sau này, số người học thêm Anh Văn càng ngày càng đông. Người ta học thêm môn này vì nhiều lý do. Người đang đi làm muốn được thăng tiến trong công việc, tiện lợi khi cần giao dịch với người nước ngoài; còn học sinh muốn trau dồi để bổ túc trình độ thiếu sót ở lớp phổ thông; ngoài ra, có người dự định xuất cảnh, kể cả những người có ý muốn vượt biên.
Cô Thủy không phải chở con đi học, vì trung tâm ngoại ngữ gần nhà, và vì hôm nay cô cũng có lớp kèm ở nhà. Thực ra, cô chỉ kèm thêm môn toán cho vài đứa trong xóm. Muốn kèm đông nữa cũng khó vì nhà cô không đủ chỗ ngồi. Hơn nữa, cô không muốn làm rình rang ồn ào, sợ phiền phức, có người rình rập, báo cáo.
Khi học sinh đã đến đông đủ, cô Thủy lấy sách giáo khoa, bắt đầu đọc đề toán cho các em viết. “Trong một trận chống càn, một đơn vị du kích gồm 6 anh hùng…”
Ngay đến đề bài toán, sau bao năm, vẫn còn sặc mùi “chống Mỹ cứu nước”, cô vẫn phải nhồi nhét vào đầu óc học sinh mỗi ngày, những cái đầu non nớt đáng thương.
Buổi tối đi học về, thằng Lộc đến bên cạnh mẹ nói nhỏ. Nó làm như có chuyện gì bí mật lắm:
– Mẹ ơi.
Cô Thủy tỏ vẻ ngạc nhiên, hỏi con:
– Gì con?
– Con thấy thầy Phan.
– Thầy Phan nào?
– Thầy Phan dậy thể dục ở trường con đó.
– Ừ, rồi sao?
Nó lấy ngón tay trỏ che miệng, cố nói thật nhỏ chỉ đủ cho mẹ nghe:
– Con thấy thầy đạp xích lô.
– Thế à? Ở đâu? Sao con biết?
Tuy hỏi con như thế nhưng cô Thủy không thấy có gì lạ lùng. Chỉ có thằng con 12 tuổi của cô mới cho đó là chuyện bí mật, cần phải dấu diếm. Nó nói, vẫn còn giữ vẻ mặt nghiêm trọng:
– Lúc con về học. Thầy đạp xích lô qua mặt con một cái vù.
– Thầy có nhìn thấy con không?
– Con nghĩ là không? Trước cổng trường có một cái cây lớn, tối hù hà. Vả lại lúc đó rất đông người. Thầy không thấy con đâu.
– Trên xe lúc đó có khách không?
– Con thấy có một bà mập ú.
Nghe xong, cô Thủy dặn con:
– Nè, con không được nói chuyện này với ai, nghe chưa?
Thằng Lộc “dạ”, rồi ra ngồi ở bàn học bài. Cô Thủy vừa dọn dẹp nhà cửa, vừa suy nghĩ. Cô đã đọc những tờ báo nói về tình trạng giáo dục ở trong nước, cho biết giáo dục đào tạo là một trong chín ngành có thu nhập nằm dưới mức trung bình; lương giáo viên phổ thông đứng hàng thứ 19 so với các ngành khác; chưa nói tới hơn phân nửa số giáo viên chưa được vào biên chế. Dậy học là một nghề cao quý, nhưng tiền lương của giáo viên lại quá ít ỏi, làm sao tránh khỏi những việc làm “tiêu cực”, “phi pháp”? Để sống còn, nhiều giáo viên phải làm những “nghề” khác. Sau giờ dậy, cô Hồng phải lén lút đi bỏ mối thuốc tây, cô Diệu phải chở gạo đi bán kiếm lời, thầy Phan phải đạp xích lô để tăng thêm thu nhập. Và còn nhiều, rất nhiều thầy cô khác nữa. Đang ở trong lớp giảng bài, bất chợt nghĩ tới nhà không còn gạo, con cái thiếu thốn, đau bệnh không có tiền mua thuốc, thử hỏi có giáo viên nào yên tâm được trong công việc “trồng người”? Rồi, thử hỏi, khi vô tình thấy thầy cô mình làm những nghề “phi pháp”, các học sinh có còn mang lòng tôn kính hay không?
Cô Thủy còn nhớ cách đây mấy năm, các thầy cô giáo ăn mặc rất xuềng xoàng, giản dị khi đi dạy học. Các cô giáo mặc áo bà ba, thậm chí quần áo bộ, đi guốc, cuốc bộ 5- 7 cây số đến trường; còn thầy giáo mặc áo bỏ ngoài quần, mang dép lẹp xẹp, không thắt cà- vạt, di chuyển bằng xe đạp. Rõ ràng không có gì phân biệt giữa thầy và trò. Học trò con nhà khá giả nhiều khi còn ăn mặc “xịn” hơn cả thầy cô giáo. Những ngày lễ lớn, nhất là vào dịp Tết, các thầy cô giáo được gọi tên mua hàng tại trường với giá rẻ hay với giá cung cấp, nào là miếng thịt heo, một vài ký đường, mấy ổ bánh mì…Mỗi thứ một ít. Thấy mà tội nghiệp. Nếu học sinh nhìn thấy những cảnh ấy, hiển nhiên nét uy nghi của thầy cô giáo cũng sẻ giảm bớt, mặc dù ai cũng biết “có thực mới vực được đạo”.
Cô Thủy được Sở Giáo dục Quận đánh giá là “giáo viên dậy giỏi” và lớp của cô được nhận danh hiệu “gương mẫu”. Nhờ sự dạy dỗ của cô, các học sinh rất ngoan ngoan, luôn chuyên cần học tập, và biết tôn trọng kỷ luật. Cũng vì vậy, có vài giáo viên không thích cô, vẫn thường đặt chuyện dèm pha, nói xấu.
Thỉnh thoảng thằng con cô kể chuyện trường nó cho cô nghe. Nó nói nhiều đứa học lớp 8, lớp 9 đã được cha mẹ mua cho điện thoại tự động, kể cả loại đắt tiền, tối ngày hò hẹn nhau, “chát chít”, không nghĩ gì đến chuyện học hành.
Gần đây, báo chí trong nước cũng phải lên tiếng báo động về tình trạng của học sinh hiện nay. Học sinh ngày càng tỏ ra hỗn láo, mất dạy, không biết kính nể ai cả. Chúng bỏ thì giờ chơi game nhiều hơn học. Chúng thích dùng tiếng lóng, chửi thề và ăn nói ba trợn, du côn. Trên facebook, chúng càng tỏ ra hư đốn, vô giáo dục, dùng những từ rất tục tĩu không cần dè dặt. Chúng thích “sửa lại” những khẩu hiệu, ngay cả những câu châm ngôn, tục ngữ, ca dao. Thí dụ: “Không có gì quý hơn vàng bạc kim cuơng”, hay “Phận làm trai gõ phím bình thiên hạ/Chí anh hùng click chuột định giang sơn”, “Yêu anh mấy núi cũng trèo/Mấy sông cũng lội, thấy anh nghèo thì thôi”, “Không có việc gì khó, chỉ sợ mình không liều – Không có việc gì khó, chỉ sợ tiền không nhiều”, vân vân…
Báo chí trong nước cũng tường thuật những trường hợp nữ sinh bị các nữ sinh khác “bề hội đồng” ngay giữa đường phố đông người qua lại, rồi xé áo, chụp hình, quay phim, mặc kệ nạn nhân khóc lóc, van xin. Những lúc đó, không thấy ai nhảy vào can gián, và cũng không thấy tay công an nhân dân nào, ngoại trừ những người lặng lẽ qua đường. Người ta xem đó là “chuyện thường ngày ở huyện” nên không cần phải xen vào. Đó là đạo đức trường học xã hội chủ nghĩa ưu việt, là “đỉnh cao” chót vót của trí tuệ mà loài người phải tuân theo.
Nghe và đọc những tin đó, nhiều người cảm thấy xót xa. Cả một xã hội bị băng hoại, thối nát từ thượng tầng xuống hạ tầng, các cấp lãnh đạo chỉ biết tham nhũng, hối lộ, mua quan bán chức, mua bằng giả, buôn lậu, ỷ quyền ỷ thế, hống hách, tàn bạo, tham lam, lường gạt. “Thượng bất chính, hạ tắc loạn”.
Trong gia đình, cha mẹ hay người lớn tối ngày quần quật lo làm ăn, có khi mánh mung, dối trá, lừa lọc, phản trắc. Họ không có thì giờ lo cho con cái, chỉ bảo chúng học hành, sửa thân…Cha mẹ đã như vậy, chắc chắn con cái phải như thế. “Rau nào, sâu nấy”.
oOo
Những cái bàn được kê nối vào nhau theo chiều dài của lớp học để làm phòng họp. Trên 20 người, có hiệu trưởng, hiệu phó chuyên môn, và giáo viên các lớp, phần nhiều là nữ.
Cô hiệu trưởng Dung, ngồi đầu bàn chủ toạ phiên họp. Cạnh cô là thầy Toàn, hiệu phó. Cô Dung khoảng hơn 30, là đảng viên, từ miền Bắc vào. Cô được “bố trí” làm hiệu trưởng trường này cách đây hai năm, thay thế thầy Bảo đã nghỉ hưu. Chồng và hai con cô còn ở miền Bắc, chưa thu xếp xong việc làm và việc học để vào miền Nam ở hẳn với cô. Cô được “trên” tạm thời cấp cho một căn hộ tại cư xá Thanh Đa. Cô ở một mình tại đó.
Thầy Toàn còn trẻ, người miền Nam, hình như còn nhỏ hơn cô Dung vài ba tuổi. Thầy dậy ở trường này đã 5 năm, từ ngày tốt nghiệp sư phạm. Thầy Toàn có dáng người cao ráo, lịch sự, và vui tính. Thầy chưa có gia đình. Trước đây thầy Toàn có vượt biên hai lần, nhưng không lọt. Chuyện này thầy ém nhẹm, không kể cho ai nghe. Nhưng, không hiểu sao trong số các giáo viên vẫn có người biết được, xì xào cho nhau nghe. Có điều bây giờ thầy đi dậy cho vui, chứ không phải vì tiền. Em trai thầy vượt biên, hiện định cư ở Mỹ, thỉnh thoảng vẫn gửi tiền và quà về cho cha mẹ và cho thầy. Vì vậy, thầy sống rất ung dung.
Đây là buổi họp rút ưu khuyết điểm của nhà trường, và những cá nhân trong tháng qua.
Đợi cho các giáo viên ngồi xuống đầy đủ, cô Dung đằng hắng, bắt đầu:
– Kính thưa quý vị, hôm qua tôi đã họp riêng với thầy Toàn hiệu phó về một số vấn đề của trường chúng ta cần phải triển khai.
Đến đây, cô Dung lấy ra một tờ giấy, cô nhìn theo đó, rồi nói tiếp:
– Trước hết là cái hàng rào quanh trường. Rồi đến là mấy cái phòng vệ sinh hay bị nghẹt, thối quá. Sân chơi bị hư hỏng nhiều chỗ. Tôi sẽ làm việc với phòng giáo dục quận để xin hỗ trợ tiền thuê thợ sửa chữa, và mua những món linh tinh như sơn, chổi, vân vân. Chị Thủ quỹ Mai, báo cáo là quỹ phụ huynh học sinh trường ta có 1 triệu bảy trăm nghìn. Nếu phòng giáo dục quận không hỗ trợ, chúng ta sẽ khắc phục làm lấy. Quý vị nhất trí như vậy không?
Cả phòng họp có nhiều tiếng vỗ tay. “Nhất trí, nhất trí…” Cô Dung bỏ tờ giấy lên bàn:
– Tháng qua, trong hàng ngũ giáo viên có vài trường hợp “tiêu cực”, như vào lớp muộn, không hoàn chỉnh giáo án, ăn mặc luộm thuộm, và bán hàng rong trong lớp. Tôi đã làm việc với những giáo viên đó. Và tôi mong rằng, những tình trạng đó sẽ chấm dứt để trên đánh giá tốt trường chúng ta. Nhất định trường chúng ta phải là trường tiên tiến, xứng đáng trong sự nghiệp trồng người như lời Bác đã dạy. Quý vị có nhất trí không?
Lại có nhiều tiếng vỗ tay nổi lên, chen lẫn tiếng cười. “Nhất trí, nhất trí…”
oOo
Trong căn phòng hạng sang ở một khách sạn tại bờ biển.
Ánh sáng mờ ảo của ngọn đèn ngủ không đủ soi rõ mặt người. Hai người, một đàn ông, một đàn bà, đang quấn lấy nhau. Họ nói chuyện rầm rì, thủ thỉ.
Giọng đàn bà:
– Tiền phụ huynh đóng góp cho quỹ nhà trường tổng cộng là 1 triệu 7 trăm nghìn. Em thuê công nhân chữa mấy cái phòng vệ sinh, hàng rào, mái dột, sơn phết… Nói chung là linh tinh, hết 1 triệu. Phần chênh lệch 7 trăm nghìn là công dàn xếp của em. Em mà tính thì phải đâu ra đó.
Giọng đàn ông:
– Em tính kỹ quá. Ai qua mặt em được. Nhưng coi chừng có đứa tố là tham lạm công quỹ.
– Em đếch sợ. Đứa nào dám tố em, đứa ấy tới số. Em sẽ đuổi cổ nó ra khỏi trường. Mà em có tham lạm công quỹ gì đâu. Công quỹ cái khỉ mốc gì. Đấy là tiền phụ huynh học sinh đóng góp. Em vẫn báo cáo tiền công là 1 triệu 7 trăm nghìn. Em cò kè mãi họ mới bớt cho 7 trăm nghìn. Chỗ quen mà. Cả hai đều có lợi. Nếu không, em dí vào. Em gọi chỗ khác. Thế là ít đấy. 7 trăm nghìn cũng tiêu được vài ngày. Lần sau em sẽ tính khác. Còn anh, bao giờ thằng em mới lo xong thủ tục bảo lãnh đi Mỹ?
– Vài năm nữa.
– Nhớ gửi quà về cho em.
– Yên chí. Anh nhớ.
Một lát sau lại có tiếng đàn ông:
– Em à, có đứa nào biết chuyện tụi mình không nhỉ? Anh sợ chồng con em ở ngoài Bắc biết chuyện thì hỏng bét.
– Biết thế chó nào được. Mình đi toàn những nơi xa thành phố. Lại ở khách sạn sang như thế này.
Trong tấm mền mỏng, người đàn bà đang nằm chờ bên dưới người đàn ông. Hai người ôm dính nhau như đôi sam. Có tiếng cười rũ, tiếng rên rỉ và tiếng thở phì phò. Căn phòng tối đồng lõa với bóng đêm ở bên ngoài.
Hà Việt Hùng
Nguồn: Tác giả gửi


















