Hồ Đình Nghiêm


Blogger Huỳnh Thục Vy

Mấy bữa ni ngày hè nực nội, đi vô đi ra chẳng biết mần chi, vác mặt ngó trời ngó đất ngó cây ngó cỏ, rồi tự dưng bốn câu thơ cũ của Luân Hoán chạy qua đầu, váng vất. Thơ như ri:

Dách, thùng, cù lũ cũng thua
Cái khe cửa hở gió đưa Tam Kỳ
Chẳng hay bạn sùng đạo chi?
Bốn mùa tâm nguyện chân quỳ trước hoa
”.

Đi ra rồi lại đi vô. Chẳng có được mẹ già mà cõng tựa Vân Tiên, nhà chốn ni thì trống hoác chả có cột mà đụng đầu cho tỉnh ngộ. Lẩn thẩn. Sao không dưng lại đè bốn câu thơ ấy mà nhớ? Đi vô rồi lại đi ra. Nắng vàng trời xanh khí hậu xem chừng e quen thuộc. A, lòng đang nhớ quê, có phải? Ô, bốn câu thơ nọ chạy tới không chừng vì mấy hôm rày vào nét thấy xôm tụ một bóng hình, một đóa hoa Tam Kỳ khoe sắc giữa nhiễu nhương bão tố vùi dập. Ôi chao Tam Kỳ, thành phố lưa thưa nằm gửi thân trên quốc lộ 1. Nó phết một nét ngang, hoàn chỉnh, tụ đúng trung tâm của chiều dài đất nước. Là cái lỗ rốn có trên cơ thể một con người. Người của địa linh nhân kiệt.

Khi xửa khi xưa mình có dừng chân ở Tam Kỳ, bấy giờ thuộc tỉnh Quảng Tín. Thành phố hay tỉnh lỵ nọ tuyệt không có lấy một ngã tư với hai đường chính là Trần Cao Vân và Phan Chu Trinh thường khoắn bụi mờ. Mình ghé ăn ngon nhức răng Mỳ Quảng Tam Kỳ, mình ngồi đồng cơm gà bà Ký, bà Luận; và xém chút nữa mình đã là cậu học sinh trường trung học Trần Cao Vân. “Học trò ngoài Huế vô chơi, gặp em xứ Quảng chân đi không đành”. May mà chẳng thất tình, nếu không e phải vào sư đoàn 2 bộ binh với cái cánh gà may lem luốt bên tay áo trận. Rồi buông súng xuống đi trình diện học tập cải tạo như đời khốc liệt vốn bày vậy. Rồi đen đủi hành nghề đạp xe ôm như phần số đã khiến xui; và cũng không chừng có khi thồ được sau yên xe một cô bé mang tên Huỳnh Thục Vy.

“Cái khe cửa hở gió đưa Tam Kỳ”. Mình không biết nhà thơ Luân Hoán muốn đi vòng vo lối nào, hình ảnh kia có gần với lối nói hiện thực trần trụi như thơ Bùi Giáng: “Em đi bên ấy chân tròn khép, hai ống mơ hồ mỏi một hang”. Cái khe hở gió, mình suy diễn một cách trần tục: Áo quần em có đoạn bị sút chỉ, mình đứng dưới chiều gió và gió va vấp vào mặt mày làm u mê một hương mùi, và hệ quả là xin được quỳ trước Hoa. Hoa viết hoa bởi hoa nọ đã được nhân cách hóa.

Quỳ? Có nhiều cách lý giải cái hành động ấy. Xúc động trước một vẻ đẹp, lòng mềm chân yếu để cúi người xuống, hân hoan ngợi ca. Ngó ra đối tượng có tỏa ra thứ hào quang làm mình choáng váng, tôn trọng, ngã nón tâm phục khẩu phục. Không biết Tam Kỳ giờ đây có còn trường Trần Cao Vân? Chẳng rõ Tam Kỳ sau 75 có mọc lên trường Hai Bà Trưng? Thục Vy theo học trường ốc nào mà lời ăn tiếng nói nghe dường lẫm liệt đến thế? Nói như thể đứng trước dòng sông mà thề nguyền: Ta sẽ trầm mình xuống đây nếu thù nhà nợ nước mãi không trả được! Hai Bà Trưng e ngôn cũng chẳng sách hoạch bằng. Đã bao nhiêu năm trôi qua trong phẫn hận im tiếng, giờ mới có tiếng nói cất cao, rạch ròi, uy vũ, minh bạch. Hãy nhớ lại đi. Mười năm? Hai mươi năm? Ba mươi năm? Tất cả đều câm như thóc!

Năm mươi năm sau, sáu mươi năm sau hy vọng du khách ghé ngang Tam Kỳ tâm điểm của bề dài đất nước, bước chân trên đường Trần Cao Vân sẽ bắt gặp một ngã tư- lần đầu tiên thành phố có được một ngã tư “hoành tráng”- con đường cắt ngang ấy có tên gọi Huỳnh Thục Vy. “Mai sau còn lại tí gì, ấy là khu vực nhu mì của em” (Bùi Giáng).

Mấy hổm rày trời Montréal trở chứng nực nội, bức bối nóng nảy cũng tợ Tam Kỳ. Đi vô đi ra cuồng chân lòng những muốn tơ tưởng thong dong trở về chốn cũ. Về để ăn tô mỳ Quảng, về để ngó lại trường Trần Cao Vân và quan trọng hơn, về để được nhìn mặt Vy một lần cho thỏa. Nhưng eo ôi sao lòng thậm thụt mọc đầy quan ngại, do dự với đắn đo, đi vô rồi lại đi ra. Phải chăng mình sợ một sáng mai nào thức giấc ở Tam Kỳ với lao xao người ngợm vây quanh. Đã có đứa nào buồn tay thảy qua chấn song nhà nghỉ hai bao cao cu đã qua sử dụng. Công an ập vào và cái thằng người ngu ngơ đang vận quần xà lỏn kia chỉ biết dậm cẳng đưa tay tự đánh vào ngực mình. Ôi thôi, sao cây khế muôn đời vẫn chua? Thiệt là buồn bực không có bút mực nào tả xiết!

Hồ Đình Nghiêm
Nguồn: Tác giả gửi

Đã đóng bình luận.