Cái Tết sau cùng tại Việt Nam của tôi

Posted: 05/01/2013 in Tùy Bút / Tản Văn / Ký Sự, Trần Mộng Lâm

Trần Mộng Lâm

tranh_minh_hoa_nguyen_nhat_tan
Tranh minh họa của Nguyễn Nhật Tân

Cuối năm 1977, sau khi được thả từ trại cải tạo vùng U Minh Hạ trở về, tôi như cái mền rách. Gia đình thì ở mãi Sài Gòn, giấy ra tù thì bắt buộc phải trở về Cần Thơ để chịu sự quản chế tại đây.

Không còn cách nào khác, tôi đành xin vào làm tạm tại Phường Cái Khế Cần Thơ. Phòng Y Tế của phường Cái Khế không có thuốc men gì. Một vài viên thuốc vớ vẩn như aspirine, vài viên thuốc nam thấy mà gớm. Người y tá cùng làm với tôi tại phường này lại có thêm một nghề tay trái kiếm ra tiền là nghề giết heo tại lò heo Cần Thơ, cho nên có thể nói thời gian này tôi làm lang băm nhiều hơn là trị bịnh. Tuy nhiên đây là thời gian tương đối thoải mái trong cuộc đời mới cửa tôi, vì trong thời gian đó, tôi giao du với các nhân viên phòng lương thực, cửa hàng ăn uống, phòng vật tư…v.v sống bụi đời, khác hẳn khi trước nên cũng thấy thú vị.

Tôi còn nhớ chúng tôi gồm một bọn 7,8 đứa. Không có đứa nào là việt cộng trước 1975 hết. Trước 1975, có người còn đi học, có người đi làm. Sau 1975, nín thở qua sông, xin được chỗ làm tại phường Cái Khế để sống qua ngày. Có Hiển làm thư ký cho phường. Nga và Gấm làm ở phòng vật tư. Thủy làm ở cửa hàng ăn uống, Sang, làm ở phòng Y tế với tôi, và hai cô giáo tiểu học cũng nhập bọn. Chúng tôi nhận làm anh em kết nghĩa với nhau. Tôi vì lớn tuổi nhất nên cả bọn gọi tôi là anh cả. Không hiểu sao họ không gọi tôi là anh hai, có lẽ vì tôi gốc người miền Bắc. Các người khác đều sống trong gia đình của họ. Tôi, vì gia đình ở Sài Gòn nên giận đời, vào ở chung với các nhân viên của phòng Y Tế phường, sống tập thể cũng vui lắm.

Bọn bụi đời chúng tôi đùm bọc lấy nhau, chia sẻ với nhau những gì có được, thí dụ như các chai bia trong cửa hàng ăn uống. Hồi đó không dễ gì có bia để uống, nhưng nếu quen biết, thì cũng dễ thở một chút.

Cũng giống như những đôi dép của cửa hàng vật tư hay hàng hóa gì đó trong cửa hàng của phường, những thứ vớ vẩn như lòng heo, hay trái cam, trái ổi. Cuối tuần, bọn chúng tôi đạp xe đạp lọc cọc, hẹn nhau đến Phong Điền, khóa xe lại rồi gọi đò đi sang một cái cù lao ở giữa sông, nơi đó là nhà của cô Mai, một giáo viên tiểu học, có vườn cam, rất nhiều ổi, mận hồng đào, và có cả soài cát nữa. Lòng heo thì do anh bạn làm ở lò heo Cần thơ cung cấp. Cũng tạm quên được những cực nhọc tủi hờn của người thất thế.

Tôi cũng tưởng người ta sẽ để tôi yên. Nào ngờ một hôm bỗng nhiên tôi nhận được giấy mời của của Ty Y Tế Tỉnh Hậu Giang. Họ chuyển tôi về làm giáo viên cho trường Trung Hoc Y Tế Tỉnh Hậu Giang. Tôi xin ở lại làm y sĩ cho phường. Nghĩa là chịu xuống hạng không được. Họ nhất định bắt tôi phải sang chỗ làm mới. Tôi đành ngậm ngùi chia tay với bọn em kết nghĩa gốc ngụy tại phường Cái Khế.

Thời gian đó trường Trung Học Y Tế Hậu Giang chuyển về tỉnh Chương Thiện, nay gọi là tỉnh Vị Thanh. Thế là tôi khăn gói gió đưa cái tỉnh nghèo nàn, cầy lên sỏi đá này.

Một anh bạn, là một dược sĩ, có gia đình gồm vợ và hai đứa con chưa tới 10 tuổi, một trai, một gái, rất xinh, rất đáng yêu, cũng đưọc chuyển về trường cùng lúc với tôi nhất định ở lỳ tại Cần Thơ. Anh này sau đó tổ chức vượt biên, thất bại.

Lẽ ra thì vượt biên thất bại cũng là chuyện thường tình, không đi được chuyến này thì người ta đi chuyến khác. Anh bạn dược sĩ của tôi quá tuyệt vọng vì mất hết tiền, và quá chán cảnh sống “từ người xuống vượn”, nên có một quyết định rất nông nổi là tự tử cả gia đình. Anh bơm thuốc độc cho vợ và các con. Vợ anh và hai đứa trẻ chết, đến phiên anh thì anh không còn đủ sức hay can đảm kết liễu đời mình nên sau cùng bị bắt đưa về Cần Thơ.

Họ đưa anh về bệnh viện Đa Khoa Cần Thơ để điều trị trước khi đưa anh ra tòa. Gặp được một người đàn anh khi đó làm bác sĩ điều trị tại đây. Ông này tạo điều kiện để anh trốn đi đêm hôm đó. Bọn CS có lẽ thấy người chết là gia đình ngụy, và cũng không muốn làm lớn chuyện sợ tai tiếng, nên xếp hồ sơ, không truy cứu gì. Tôi không biết người bạn dược sĩ ấy bây giờ ra sao. Có người nói anh tự tử sau đó. Không biết thực hư. Đây là chuyện thực 100% của Cần Thơ năm 1977.

Đây chính là một trong những chuyện thương tâm xẩy ra trong những năm sau 1975 mà cho đến nay, chưa có tác phẩm văn chương nào ghi lại được một cách trung thực.

Trường Trung Hoc Y Tế gồm những căn nhà vách gỗ, mái lá trông rất nghèo nàn. Bọn thầy giáo chúng tôi ở riêng một khu. Các học trò ở trong những căn nhà tương tự ở một khu khác. Thầy trò dung chung những phòng vệ sinh gọi là “hố xí hai ngăn”. Có bữa tôi ngồi tại một hố, nhìn sang hố bên cạnh thấy cô học trò. Thầy trò nhìn nhau, ngượng ngùng.

Tôi lại sống đời tập thể. Trường này có hiệu trưởng là một bác sĩ tập kết về từ miền Bắc, tên gọi là Trần Sáu. Hiệu phó là một bác sĩ (??) từ trong bưng ra. Anh này là người miền Nam, tên Ba Lập. Theo chỗ tôi đánh giá, thì anh ấy mới là người nắm thực quyền trong tay. Bọn giáo viên thực sự dậy chuyên môn gồm có một anh bạn tôi, cũng là một đồng nghiệp khi trước làm ở Quân Y Viện với tôi, một bác sĩ trẻ ra trường đúng vào năm 1975, chưa có một ngày nào hành nghề trước khi miền Nam sụp đổ. Ba đứa chúng tôi là giáo viên gốc ngụy. Ngoài ra là bọn y sĩ từ rừng rú trở về, trong bọn có một cô bác sĩ từ miền Bắc gửi vào. Cô này tên Hồng, cách ăn mặc không khác gì một người chuyên buôn bán ngoài chợ, nghĩa là giống một người nông dân hơn là bác sĩ miền Nam. Tuy nhiên cô bác sĩ này rất dễ thương, rất đáng thương thì đúng hơn, vì lúc nào cô cũng thiếu tiền vì có tới ba đứa con nhỏ. Lúc đó chưa có chuyện bác sĩ khám bệnh tư. Lương tháng của tôi được 67 đồng việt công. Hồng luôn luôn nợ tiền anh bạn tôi, trung bình 20,30 đồng một tháng, vì anh này khi đó cũng độc thân như tôi, nhưng có một chút tiền. Anh luôn luôn khuyên tôi “lấy của che thân”. Tôi cũng đồng ý với anh nên tất cả các quyền lợi vật chất nhỏ mọn, thí dụ như khi bọn giáo viên được chia mua một chiếc mùng, cả bọn họp nhau lại bình bầu xem ai đáng được mua, chúng tôi đều nhường cho bọn họ.

Tôi ăn cơm tập thể, mỗi buổi trưa mang xuống nhà ăn mỗi người một cái chén, một đôi đũa của mình. Ăn xong lại đem đũa chén của mình rửa và đem về phòng. Cơm và đồ ăn rất đạm bạc, nuốt không vô nên có một lần một anh gốc Miên để cả một ngày hì hục tát cái hồ trước khu nhà tập thể để bắt cá. Anh tốn hết sức mà sau cùng chỉ bắt được 4, 5 con cá nhỏ bằng mấy ngón tay.

Tôi và anh bạn chỉ đợi đến chiều, sau khi hết làm việc, và khi bọn bác sĩ từ ngoài bắc (là nhân viên giảng huấn của trường trung học y tế Hà Sơn Bình, là trường THYT kết nghĩa với Hậu Giang, gửi vào để huấn luyện chúng tôi) ngồi nhai những sâu mía ghim, bán 0.50 đồng một sâu, ngồi chồm hổm theo cách ngồi đặc biệt của bọn họ, thì hai đứa chúng tôi lỉnh ra bến xe Vị Thanh, ở đó bánh canh được bán với giá 2 đồng một tô, ăn ngon tuyệt cú mèo. Lẽ dĩ nhiên lương của tôi chỉ đủ ăn mỗi ngày một tô bánh canh !!!

Tết năm đó công nhân viên được đặc biệt chiếu cố. Mỗi người được mua 2 thước vải để may quần, được mua một cây thuốc Vàm Cỏ, là loại thuốc lá nội địa, hút vào còn kém xa thuốc rê, nhưng thời buổi khó khăn, có còn hơn không. Tôi đem ngay cây thuốc vừa được mua, ra bán lại lấy một chút lời.

Trương Hải là giáo viên trường trung học y tế Hà Sơn Bình được cử vào công tác tại trường THYT Hậu Giang. Anh ta vừa dậy học, vừa huấn luyện chúng tôi. Tôi còn nhớ khi ấy tôi phải chấp hành những nguyên tắc “năm bước lên lớp” gì gì đó, ngày nay tôi chỉ còn nhớ nguyên tắc thứ nhất là : “Ổn định lớp” nghĩa là điểm danh, trước khi bắt đầu, bốn nguyên tắc sau thì quên hết rồi. Bọn học trò phân nửa là học sinh ngoài Bắc theo gia đình vào miền Nam, phân nửa là học trò gốc miền Nam. Trình độ hai nhóm khác nhau rõ rệt, kể cả về sự hiểu biết lẫn lễ phép đối với thầy. Trong 3 tháng đầu tiên của lớp học năm đó, tôi chỉ dậy được hai hay ba bài gì đó, vì học trò mất một tháng để học lao động, lại còn học chính trị, học những thứ quỷ quái gì không biết. Lương tâm của một người thầy đào tạo những y sĩ tương lai cho Hậu Giang làm tôi tuy không đồng ý nhưng không dám mở miệng.

Trương Hải tương đối là người có thể nói chuyện được vì trước khi CS vào Hà Nội, anh theo học tại Đại Học Y Khoa Hà Nội. Nhiều buổi chiều chúng tôi và Trương Hải rủ nhau đi tắm sông Vị Thanh vì trường THYT không có phòng tắm. Mấy ông thầy nhẩy xuống sông đục ngầu vì phù sa, kỳ cọ không giống ai nhưng đó là những kỷ niệm khó quên cho tôi, từ nhỏ đến lớn quen sống trong tiện nghi. Cũng có đêm tôi rủ Trương Hải đi nhậu. Trương Hải nói với tôi là đây là giai đoạn thỏai mái nhất của đời anh. Anh nói với tôi: Cậu thử tưởng tượng xem nhà tớ ở Hà Nội nhỏ tí. Năm anh em sau khi lập gia đình về chung sống trong cùng một cái nhà. Năm người anh em trở thành năm gia đình, chia ra mỗi gia đình một góc bé tí, sống tù túng, chật chội vô cùng.

Nhờ các liên hệ mà tôi quên mất không hiểu làm sao có được, tôi quen thân với bác Năm là người thợ hớt tóc lâu năm tại thành phố này. Chúng tôi thân nhau vì rượu. Nhờ ở thời gian trong quân ngũ, và nhờ những năm học tập, tôi thích nghi dễ dàng với giới bình dân.

Tôi biết một điều là muốn sống còn tại Miền Tây, phải biết nhậu.

Ông Năm thường thủ trong nhà những can rượu đế, nay nghĩ lại tôi còn rùng mình, không hiểu sao hồi ấy mình liều thế, rượu thì đùng đục, lại được ngâm bằng những thứ quỷ quái gì không biết, mà ông Năm gọi là rượu thuốc. Mồi thì khi là con vịt, khi là mấy con ếch, có khi là mấy con khô, hay vài trái ổi, trái cóc. Nhưng rượu vào, lời ra, sau này ở Montréal, nhậu cognac, hay vin rouge, vin blanc, đủ thứ, tôi cũng chỉ thấy đã như thế là cùng.

Gần Tết năm đó, tôi đưa Trương Hải tới nhậu tại nhà ông Năm. Cùng đi với mấy chúng tôi có mấy anh tài xế lái xe cho trường, mấy anh khác làm những công tác bảo vệ vớ vẩn gì đó. Lương của tôi là giáo viên 67 đồng một tháng. Lương của mấy anh lái xe là 75 đồng. Với mức lương chết đói đó, tôi chẳng thấy thích thú cũng như bổn phận gì phải tốn thì giờ soạn giáo án. Cứ việc đem các giáo án soạn sẵn của ông Đặng Văn Chung ra đọc từ từ cho học trò chép.

Trương Hải cũng chẳng hơn gì. Anh nói với tôi :

– Tớ không cổ cánh nên không được đi ngoại quốc nên đói rách lắm. Anh Nguyễn Hải (một giáo viên khác, cũng đến từ Hà Sơn Bình) vì được là đảng viên nên đã được đi Tiệp (Tiệp Khắc). Cậu biết không, một năm đi Tiệp bằng ba năm đi Nga. Bọn giáo viên đi sang Tiệp học có học hành quái gì đâu, chúng chỉ lăm lăm tìm mua xe đạp Tiệp gửi về cho gia đình bán kiếm lời. Sau một năm, làm giầu. Đây là lần đầu tiên tớ vào Nam. Đi Tiệp chắc cũng chỉ sướng thế này là cùng.

Tôi chỉ biết cười, không biết nói gì. Nín thở qua sông, tôi tránh không kể cho anh nghe nếp sống của tôi trước 1975.

Tại nhà ông Năm, năm đó, Trương Hải được ăn nhậu thả dàn với bọn chúng tôi. Khi đã khá say, anh quên hết cả những giữ gìn mà lẽ ra anh đã phải học trước khi vào miền Nam. Anh nói :

– Khi tôi mới ra trường, chúng nó (Việt Cộng) đâu có phát bằng cho tôi. Tôi phải đi làm việc tập sự tại Cao Bằng trong 3 năm. Tại vùng thượng du miền Bắc này, tôi cũng đã được uống rượu, nhưng rượu của dân miền núi nhạt thếch, đâu có bằng rượu ngày hôm nay tôi được uống tại miền Nam.

Ông Năm, như tất cả người dân bình dân miền Nam khi uống rượu, hào sảng:

– Vậy thì hôm nay chú mày phải uống thật say, Dô thêm một ly nữa nghe thằng em.

Cứ thế chúng tôi làm hết hai can rượu đế của bác Năm. Nói nào ngay, chúng tôi hùn tiền lại để uống cho say trong những ngày cuối năm, cho nó quên đi những đắng cay của cuộc đời khi “xuống chó”.

Sau cùng khi đêm đã khá khuya, tôi và Trương Hải đưa nhau về khu tập thể.

Tôi biết khi ấy Trương Hải thực sự quý mến tôi.

Khi chỉ còn hai đứa với nhau, Trương Hải nói với tôi:

– Lâm này, tớ nói cho cậu nghe, đừng làm như anh C. (Tên người dược sĩ đã giết chết vợ con sau khi vượt biên thất bại). Tớ biết các cậu khổ lắm nhưng nghe tớ đi, người ta sống được thì mình sống được, cố gắng chịu đựng đi.

Trong bóng đêm, tôi chợt thấy mắt anh rất buồn, và long lanh ngấn lệ. Có lẽ anh đang khóc, khi nhớ lại những đoạ đầy một người trí thức như anh phải chiụ đựng trong suốt cuộc đời trong ngục tù CS.

Một lát sau, anh nói tiếp:

– Ngày mai, thế nào lão Lục (giáo viên Hà Sơn Bình, dậy môn chính trị), và lão Nguyễn Hải, thế nào cũng phê bình, cũng kỷ luật tớ, nhưng tớ già rồi, sắp về hưu, tớ cóc cần. Còn cậu, nghe cho kỹ lời tôi sắp nói với cậu, và đừng nói lại với ai: “Trong bất cứ hoàn cảnh nào, cậu không có quyền than vãn. Hai mươi năm cậu được hưởng, từ 1954 đến 1975, như vậy cũng đủ, cũng đáng giá lắm rồi, nếu so sánh với chúng tôi.

Tôi giả lả nói với Trương Hải:

– Anh yên lòng, tôi đã nhất quyết làm một người thầy tận tâm cho các em học trò ở đây. Tôi dại gì phiêu lưu để mua lấy cái chết không đáng gì.

Trương Hải đâu biết khi đó người bạn cựu đại úy y sĩ cùng dậy học với tôi đang tổ chức vượt biên. Anh nói với tôi :

– Bọn mình hai đứa. Tôi đi thì anh ở lại sẽ bị bọn nó hành khổ lắm nên tôi không đành dấu anh.

Chúng tôi thí mạng cùi sau đó. Cuộc vượt biên đầy gian nguy trắc trở, có gặp bão, có gặp hải tặc Thái Lan nhưng nhờ phước đức ông bà để lại, cả bọn đến được Mã Lai. Khi ấy hải tặc chưa giết người vượt biên. Việc tàn ác đó chỉ xẩy ra những năm sau này.

Tôi xa VN đã trên 30 năm, và không một lần trở lại.

Việt Nam trong tâm tưởng của tôi đã trở thành dĩ vãng. Một dĩ vãng quá xa xôi, quá u buồn.

Tất cả những kỷ niệm mịt mờ, như trong tiền kiếp.

Các người em kết nghĩa của tôi thuở nào, ai còn, ai mất?

Có người nói với tôi sau này Ba Lập lên tới chức là thủ trưởng Y Tế toàn miền Tây.

Còn anh Trương Hải, người đồng nghiệp đàn anh? Anh Trần Sáu? Cô đồng nghiệp tên Hồng? Tôi không có chút gì thù hận khi nghĩ tới những người này. Trái lại là khác.

Riêng đối với anh Trương Hải, cho đến giờ phút này, tôi vẫn không quên câu nói của anh trong dịp Tết cuối cùng của tôi tại Cần Thơ: “Người ta chịu được thì mình chiụ được. Dù sao chăng nữa, anh đã có được 20 năm sung sướng tại miền Nam.

Anh Trương Hải ơi, đã trên 30 năm rồi tôi không trở lại Hậu Giang và thành phố Cần Thơ.

Cần Thơ, Cần Thơ.

Biết bao giờ tôi có dịp trở về? Quê ngoại của các đứa con tôi.

Thôi thì cũng đành, như nước chẩy qua cầu mà thôi. Sẽ chẳng bao giờ tôi tìm lại được cái thành phố dễ thương đó.Yết Đế, Yết Đế, Ba La Yết Đế: Qua đi, Qua đi, Qua nữa đi.

Trần Mộng Lâm
Nguồn: Tác giả gửi

Đã đóng bình luận.