Trầm Nhiên
“Cây dừa quê nội
Nằm ở góc vườn
Nó tỏa bóng mát
Khắp cả khu vườn
Những ngày chủ nhật
Em về thăm nội
Được uống dừa tươi
Nước dừa mát rượi
Đến lúc em về
Nó vẫy tàu lá
Như muốn chào em
Và em bật nói:
‘Em quý dừa lắm
Dừa có biết không?
Hẹn gặp lại dừa
Những ngày chủ nhật!’…”
Tôi luôn bật cười trước những vần Thơ trẻ con, hết sức đơn giản này. Đây chính là bài Thơ đầu tiên của tôi – “Cây dừa quê Nội”. Tôi đã viết nó vào mùa hè chuẩn bị lên lớp 3, năm tôi 8 tuổi. Dẫu từ lâu, quyển sổ ghi chép thuở nhỏ của tôi đã bị lạc mất; nhưng tôi vẫn nhớ như in bài Thơ đầu tay rất đỗi ngây ngô của mình. Tôi nhớ nó như in còn vì vào năm học lớp 3 ấy, tôi đã được giải nhì với bài Thơ này trong cuộc thi Văn -Thơ gì đó do trường tôi phát động để hưởng ứng phong trào sáng tác dành cho học sinh tiểu học lúc bấy giờ. Tôi cũng chẳng rõ mình đoạt giải là do hầu hết các bạn đều tham gia cuộc thi bằng những bài Văn miêu tả / kể chuyện, nên bài Thơ của tôi nằm trong dạng “hiếm hoi” – hay là vì tôi là thí sinh nhỏ tuổi nhất và “dũng cảm” nhất trường khi đó nữa?! Một kỷ niệm thật khó quên…
Ngày ấy, tôi đâu có ước mơ lớn lên mình sẽ là Thi sĩ. Tôi ước mơ nhiều thứ vĩ đại và ghê gớm lắm! Tôi còn nhớ sau mỗi lần bị la vì không nghe lời người lớn, vì tùy thích làm theo ý mình – tôi thường ngang bướng giận dỗi, lì lợm lẽo đẽo đi theo rù rì “đe dọa” Ba Mẹ là lớn lên tôi sẽ “bay vào vũ trụ”, tôi sẽ trở thành phi hành gia – bay cao / bay xa, bay ra khỏi nhà… Tôi là vậy, cứ luôn hờn giận bằng cái kiểu “tưởng tượng trẻ con”. Tôi luôn khiến Ba Mẹ há hốc mồm bất lực, “điên cái đầu” vì tôi. Tôi rất hay lý sự, dai dẳng lý sự đủ mọi cách thức để người lớn phải đầu hàng chịu thua thì tôi mới chịu thôi. Bài Thơ đầu đời của tôi khi đó chẳng qua cũng chỉ là lời “nhắc khéo” tôi gửi đến Ba là tôi muốn chủ nhật tuần nào cũng được Ba chở tôi về Nội, vì tôi đã “hẹn gặp lại dừa / những ngày chủ nhật”, và tôi muốn Ba luôn hái dừa cho tôi uống, bởi “nước dừa mát rượi”… Chỉ thế mà thôi. Tôi đâu có muốn làm Thi sĩ!
Mặc dù từ khi biết đọc chữ, tôi đã rất mê đọc sách và rất thích Văn – Thơ, nhưng tôi chẳng nghĩ mình sẽ trở thành Thi sĩ hay Văn sĩ gì cả! Gia đình tôi cũng chẳng ai muốn tôi sẽ đi theo con đường văn chương, chữ nghĩa hay bất cứ con đường nào mang tên nghệ thuật. Ba tôi là Hiệu trưởng một ngôi trường nhỏ; đồng thời, ông còn là giáo viên phụ trách các môn Nhạc – Họa. Ông là “một nghệ sĩ thứ thiệt” trong lĩnh vực hội họa, nhiếp ảnh và âm nhạc – với sở trường chơi kèn Saxo rất tuyệt vời. Ông có cả một ban nhạc hoạt động nghệ thuật hẳn hoi thời ấy. Ông rất thương yêu và cưng chiều tôi. Ông luôn mang tôi theo trong những lần đi biểu diễn xa nhà – bởi dù chỉ một ngày, ông cũng không chịu được nỗi nhớ khi phải xa tôi, “đứa con gái rượu” giống ông như tạc. Tôi rất đỗi yêu Ba, thần tượng Ba. Với tôi, ông là số một và là duy nhất. Càng lớn, tôi càng giống Ba. Trong tôi nồng nàn cuộn chảy dòng máu nghệ sĩ của Ba. Thế nhưng, cứ như tôi sinh ra là không phải để “giống Ba” – ngay cả ông cũng không mong muốn điều đó. Ông kỳ vọng ở tôi rất nhiều, về những cái ông không / chưa có, về những cái khác ông – tốt đẹp hơn ông. Ông và mọi người luôn nghĩ rằng, tin rằng như thế là đúng đắn, là tốt nhất đảm bảo cho tôi – đứa con gái duy nhất của gia đình – một cuộc đời bình yên, một tương lai tươi sáng… Mọi mầm mống mang tố chất nghệ thuật trỗi dậy nơi tôi đều bị triệt tiêu hoàn toàn từ những rào cản cấm đoán – như một áp lực vô hình gia đình kiềm hãm, áp đặt lên tôi. Tôi như “một sản phẩm phức hợp”, cấu thành từ muôn kỳ vọng / lý tưởng của người lớn. Lạ thay, tất cả những điều đó chẳng những không thể thay đổi được gì mà như chỉ khiến tôi càng vùng vẫy mãnh liệt hơn trong nỗi đam mê nghệ thuật bất tận, trong câm lặng / giằng xé…
Tôi viết, tôi đã viết rất nhiều từ những ngày còn bé. Nhưng tôi không ý thức được mình viết để làm gì và tại sao tôi lại luôn thích / muốn viết. Tôi viết như một nhu cầu, gần giống như nhu cầu ăn / uống thiết yếu mà tôi cần có. Những bài Thơ, tản văn, tạp bút và cả những trang nhật ký non nớt liên tục đều đặn ra đời – kể từ sau bài Thơ đầu tay tôi đã viết. Tôi viết lặng lẽ, viết vụng trộm, viết lén lút – bất kể nơi xó xỉnh nào có thể co ro ngồi viết được mà không ai nhìn thấy. Viết xong rồi lại đem đi giấu, rồi lại lẻn ra bờ sông ngồi thẫn thờ xé / đốt bỏ. Có lúc “lãng mạn” hơn, tôi lại ngồi xếp những tờ giấy chi chít chữ mình đã viết thành những chiếc thuyền con con, hoặc cuộn tròn chúng lại nhét vào những kẽ nhánh lục bình dạt bờ rồi nhẹ nhàng đẩy chúng ra sông. Tôi đứng lặng nhìn chúng trôi đi trong nỗi buồn man mác nhưng đầy thích thú, si mê kỳ lạ. Bởi tôi biết rằng sẽ chẳng ai phát hiện được cái “bí mật khủng khiếp” này của tôi, khi mọi “chứng cứ” đều đã được phi tang, rất dịu dàng… Nhiều năm sau này, tôi vẫn tiếc nuối mãi về việc mình đã không thể giữ được rất nhiều những trang viết đầu đời ấy. Có một thời gian, tôi điên cuồng nhớ chúng quay quắt trong nỗi buồn mất mát day dứt khó tả. Không biết chúng đã trôi về đâu, đã đến những nơi đâu và đã có ai vô tình nhặt được để cất giữ dùm tôi… cả khoảng trời tuổi thơ đầy mộng mị?…
Tôi thuở nhỏ nghịch ngợm và hiếu động lắm. Một đứa con gái lăng xăng suốt ngày mê mẩn với bao trò chơi con trai. Nào là đá banh, rượt bắt, kéo co, trèo cây, đào dế, bắn thằn lằn,… và cả quýnh lộn. Tôi chỉ chơi với con trai, bởi các anh em trong gia đình tôi đều toàn là trai, và cũng chẳng rõ vì sao tôi lại không thích mấy đứa con gái rụt rè / nhút nhát trong xóm. Nào kẹo, nào kem, nào búp bê / áo đầm và nào những tiếng khóc thút thít mè nheo / mít ướt cứ như là “sở trường” của bọn nó. Tôi dị ứng với tất cả những thứ đó. Nhiều phen tôi làm Ba Mẹ bực tức và lo lắng, đến mức Ba phải tổ chức “bố ráp” để túm cổ tôi về trong những lần lì lợm lẻn theo bọn con trai đi chơi.
Tôi cực kỳ mê đá banh và đá banh rất giỏi. Không có đứa con trai nào nhanh nhẹn và sút banh chính xác vào khung thành đối phương được như tôi. Mỗi lần chia hai phe chơi đá banh, bọn con trai đều luôn rất muốn có tôi về phe chúng. Bọn chúng cứ theo năn nỉ tôi miết. Tôi rất khoái chí vì được bọn chúng “trọng vọng”, và bao giờ tôi cũng là thủ lĩnh của cả bọn trong những cuộc chơi vô thưởng vô phạt tuổi nhỏ…
Tuy nhiên, tôi ham học và học rất giỏi. Tôi luôn đứng nhất lớp, vượt trội hơn bạn bè về trí nhớ và cả sự thông minh. Ngoài những lúc cực kỳ hiếu động mê tít những trò con trai, tôi lại cắm đầu vào bài vở, say mê như quên cả đất trời. Đặc biệt, ở cái tuổi nhỏ xíu khi mới học lớp 2, tôi đã mê mẩn các môn chơi Cờ – mang tính “đối kháng trí óc”. Tôi hay tha thẩn lang thang đi xem người lớn chơi, rồi nằng nặc xin Ba Mẹ mua các bộ Cờ về để tự học. Tôi say mê một cách lạ thường. Tôi có thể ngồi hàng giờ một mình – cứ như “một nhà hiền triết” với bàn cờ trước mặt để tự mài mò nghiên cứu rành rẽ cách chơi. Rồi lại thực hành bằng cách rủ hết người này đến người kia trong gia đình “đấu thử” với tôi. Ông Ngoại tôi là người “bạn Cờ” như tri âm tri kỷ của tôi ngày ấy. Tôi biết chơi Cờ Tướng chính là nhờ ông Ngoại dạy và hướng dẫn cho tôi… Trong các loại Cờ, tôi giỏi nhất môn Cờ Vua. Năm 1997 – năm tôi lớp 9, ngoài giải Lê Quý Đôn kỳ thi tốt nghiệp Trung Học Cơ Sở tôi đạt được cùng với giải nhì môn Sinh Vật (giải cao nhất, không có giải nhất) trong kỳ thi Học Sinh Giỏi – Thí Nghiệm Thực Hành toàn tỉnh Tây Ninh quê tôi, tôi còn giành được giải Vô Địch Cờ Vua Nữ trong cuộc thi Hội Khỏe Phù Đổng năm đó. Tôi được tuyển thẳng vào một trường Phổ Thông Trung Học khá danh tiếng ở Sài Gòn và Ba Mẹ đã đưa tôi xuống Sài Gòn để tiếp tục con đường học vấn đầy triển vọng của tôi…
Những trò chơi và những đam mê thuở nhỏ vẫn cứ theo đuổi tôi, mãi đến khi tôi đã lớn, đã trở thành thiếu nữ. Tôi vẫn mê Cờ Vua và mê đá banh đến cả khi đã vào Đại Học. Thế nhưng, trường tôi khi đó lại không có sân chơi cho bộ môn Cờ Vua, nên tôi chỉ tham gia vào đội bóng đá nữ của khoa Du Lịch trường tôi. Dĩ nhiên, tôi tuyệt đối giấu gia đình, không dám để lộ chuyện này, kể cả chuyện tôi lén đi học Võ bên ngoài. Bởi tôi biết Ba Mẹ tôi sẽ không đồng ý, vì tôi là con gái. Chỉ vì tôi là con gái! Con gái! Con gái!… Tôi là đứa con gái duy nhất trong một gia đình khắc nghiệt truyền thống Nho giáo. Tôi tuyệt đối phải công – dung – ngôn – hạnh, phải đủ đầy những phẩm chất chỉnh chu thuần túy của người phụ nữ. Tôi luôn “tức thở” về điều đó. Cô độc, tôi ôm nỗi tranh đấu tuyệt vọng, chìm sâu… Trong tôi, từ lâu đã ngấm ngầm biết bao bức xúc / nổi loạn. và Rồi, tâm lý tuổi trẻ đầy nông nỗi / háo thắng / tự tôn về bản thân mình đã đẩy tôi đến với liên tiếp những cơn bùng nổ ngút ngàn. Tôi bắt đầu quyết làm khác, sống khác. Tất cả độc nhất theo ý muốn điên rồ của mình, hoàn toàn bất chấp. Tôi bắt đầu đi, những bước chân non nớt / độc hành trên con đường hun hút mịt mờ mà tôi không biết sẽ dẫn tôi đến đâu. Tôi chỉ biết mình phải đi. Và tôi đi, lầm lũi… Trong tôi khắc khoải một niềm tin mãnh liệt về nơi mình quyết đến. Tôi luôn tin rằng: Rồi cuối cùng, nhất định tôi cũng sẽ đến nơi tôi được là chính mình, trong thật sự hài lòng / thỏa nguyện. Dẫu khi đó, tôi vẫn chưa thể xác định được rõ ràng “chính mình” là ai – tôi muốn trở thành ai, trở thành thế nào để có thể gọi là “chính mình”. Con đường tôi đi chỉ như con đường dẫn đến hoang mạc, bơ vơ / lạc loài…
Trên con đường ấy tôi đi, hành trang mang theo – hay đúng hơn, người bạn đồng hành cùng tôi – lại chính là những bài Thơ, những trang Văn. Tôi vẫn viết, luôn thích viết như tôi của những ngày thơ ấu. Những trang viết là nơi tôi tựa nương mình, là nơi sẻ chia / bảo bọc / ôm ấp lấy tâm hồn mong manh, dễ vỡ của tôi. Tôi chỉ cảm thấy an toàn và bình yên khi được cầm bút, được đắm mình trong thế giới cảm xúc của riêng tôi. Như một sự “bất khả xâm phạm” duy nhất mà tôi có, tôi thấy mình mạnh mẽ, tự tin và tự do khi được viết. Tôi viết như một cứu cánh, một lối thoát tất yếu để giải tỏa chính mình. Tôi viết trong thầm lặng, viết cho riêng tôi và hoàn toàn không hề có trong tôi ý nghĩ / ước muốn trở thành một văn nghệ sỹ.
Tôi tốt nghiệp đại học Ngoại Ngữ. Cũng như bao bạn trẻ khác, những năm tháng sau đó của tôi là sự vật lộn miệt mài với hoàn cảnh sống, với khát vọng vươn lên cháy bỏng. Tôi triền miên mệt mỏi bởi bao bộn bề / lăn xả công việc trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Con đường tôi đi như dần đẩy tôi vào ngõ cụt ngao ngán, xa dần bóng dáng chính tôi. Đồng thời, càng ngày tôi lại càng cảm nhận rõ rệt được sức sống và sự tồn tại của mình trong từng trang viết. Trào dâng trong tôi biết bao đam mê / thích thú, lẫn một nỗi thôi thúc tâm cảm kỳ lạ mà tôi không thể nào ngăn lại được. Tôi bỗng thiết tha yêu việc viết lách và mơ hồ nhận ra đây mới chính là thứ tôi cần, là con đường mà tôi không thể chọn lựa khác đi. Hay nói đúng hơn, đây là một con đường tôi đã không được chọn lựa, cũng như tôi đã từng không được nghĩ về nó…
Con đường tôi luôn muốn đi – giờ đây tôi sẽ đi, quyết phải đi. Con đường Văn Chương – con đường của tôi! Nó sẽ dẫn tôi đến được với điều tôi muốn, đó là khoảnh khắc tôi nắm bắt và chạm được chính mình. Tôi đã nhận ra “chính mình” là chiếc bóng. và Chỉ trên con đường này, tôi được độc hành ung dung đuổi bắt…
Trầm Nhiên
Nguồn: Tác giả gửi



















