Nguyễn Mạnh Trinh
Alice Ann Munro, sinh tại Laidlaw ngày 10 tháng 7 năm 1931 là một tác giả Canada viết văn Anh ngữ và đoạt giải Nobel Văn Chương năm 2013 của Hàn Lâm Viện Thụy Ðiển và năm 2009 đoạt giải Main Booker International Prize vì đã sáng tác các tác phẩm trong suốt đời sáng tác của mình. Bà cũng ba lần đoạt giải Canada’s Governor General’s Award về tiểu thuyết.
Những tác phẩm của bà lấy phong cảnh của nơi sinh trưởng là Huron County ở tây nam Ontario và không gian ấy đã được nhìn ngắm và mô tả với cả tâm tình đầy chất nhân bản, khám phá trong những điều phức tạp của con người. Alice Munro được coi như một nhà viết tiểu thuyết lớn nhất của văn học đương đại, hoặc là như Cynthia Ozick đã cho là “Chekhov 2013 của chúng ta.” Trong bản tuyên dương của Hàn Lâm Viện Thụy Ðiển, bà được vinh danh là “bậc thầy của dòng truyện ngắn tân kỳ hiện đại.” Quan niệm về viết truyện ngắn của bà khá giản dị khi phát biểu: “Tôi muốn kể câu chuyện theo cách cũ, điều chắc chắn sẽ xảy ra với một ai đó nhưng tôi muốn điều đó được chuyển tới độc giả bằng những cách tiếp cận mới. Tôi chủ đích muốn người đọc cảm thấy đó là một câu chuyện đã cũ nhưng vẫn tạo được những kinh ngạc khi đọc nó. Ðó là cách mà tôi cảm thấy mình có thể truyền tải tốt nhất qua mỗi một cuốn truyện ngắn.”
Alice Munro sinh quán tại Wingham, Ontario. Cha của bà là một người trại chủ và mẹ của bà là một cô giáo. Munro bắt đầu viết khi còn rất trẻ ở tuổi teenager, đã xuất bản tập truyện ngắn đầu tiên “The Dimensions of a Shadow” năm 1950 khi đang học văn chương Anh ngữ và ký giả tại University of Western Ontario trong thời gian hai năm được học bổng. Trong lúc này bà làm việc bán thời gian như bồi bàn, bán thuốc lá và làm phụ việc trong thư viện. Năm 1951, Munro rời khỏi trường đại học nơi mà ngành học chính của bà là English và kết hôn với người bạn sinh viên cùng trường là James Munro. Hai vợ chồng di chuyển về sinh sống tại Dundurave, West Vancouver khi James nhận được việc làm ở đây. Năm 1963, họ di chuyển về Victoria và tại nơi này mở một tiệm sách nổi tiếng và hiện nay vẫn còn mở cửa.
Munro rất tự hào vì bước đi khởi đầu với tuyển tập truyện ngắn đầu tiên “Dance of the Happy Shades” in năm 1968 đã đoạt giải Governor General’s Award, một giải thưởng văn học được coi là cao nhất của văn học Canada. Sự nghiệp kế tiếp là “Lives of Girls and Women” in năm 1971, là một tuyển tập gồm nhiều chuyện được nối kết với nhau và liên hệ với nhau nên cũng có thể gọi là một dạng thể của tiểu thuyết. Năm 1978, một tuyển tập gồm nhiều truyện ngắn liên kết với nhau “Who Do You Think You Are” được xuất bản (Bản in ở Hoa Kỳ có nhan đề khác là “The Beggar Maid Stories of Flo and Rose”). Và cuốn sách này đã mang về cho bà được giải thưởng Governor General’s lần thứ hai. Từ năm 1979 đến 1982, bà đi du lịch Australia, China, và Scandivania. Năm 1980, bà có hai nơi làm việc viết văn ở hai trường đại học: University of British Columbia và University of Queenland. Trong khoảng thời gian từ 1980 đến 1990, bà xuất bản một tuyển tập truyện ngắn về những thời gian này.
Bài viết của Alicre Munro thường được đăng trên The NewYorker, The Atlantic Monthly, Grand Street, Mademoiselle và The Paris Review. Trong một cuộc phỏng vấn để vinh danh bà năm 2006 trong tuyển tập The View from Catle Rock, Mungo đã gợi ý rằng có thể bà sẽ không bao giờ tiếp tục xuất bản về sau những tuyển tập truyện ngắn nữa. Nhưng tháng 8 năm 2009, tuyển tập Too Much Happiness lại được xuất bản. Truyện ngắn “The Bear Came Over the Mountain” được chọn lựa để thực hiện thành phim ảnh với đạo diễn Sarah Polley. Nhan đề phim là “Away From Her” với tài tử Julie Christie và Gordon Pinsent, được trình chiếu năm 2006 tại Toronto Unternational Festival và được đề cử để tranh giải Academy Award for Best Adapted Screenplay, nhưng phim No Country for Old Men đoạt giải.
Ngày 10 tháng 10 năm 2013, bà được tuyên bố là người đã đoạt giải Nobel Văn Chương năm 2013 gây một sự ngạc nhiên . Bởi vì, trong danh sách những candidate sẽ đoạt giải, nhiều tên tuổi khác luôn luôn đuợc nhắc đến của văn chương thế giới trong nhiều năm nhưng vẫn không có duyên với giải thưởng này.
Mỗi năm, cứ vào đầu tháng 10 là các giải thưởng Nobel được công bố. Giải thưởng Nobel về văn chương đã qua một tiến trình chọn lựa người trúng giải theo đúng khuôn khổ đã được ấn định. Bắt đầu từ tháng 9 năm trước là những lá thư gửi đến các nhân vât có uy tín trong quốc gia họ sống và trên văn đàn thế giới để mời gọi giới thiệu những nhà văn hoặc nhà thơ tham dự vào cuộc chọn lựa cho giải thưởng. Lá thư này do hội đồng tuyển chọn mời đến các nhân vật khả kính có đầy đủ uy tín để bảo đảm giá trị cho người được giới thiệu như thành viên của Hàn Lâm Viên Thụy Ðiển và các Hàn Lâm Viện khác, các vị giáo sư đại học về văn chương và ngôn ngữ học nổi tiếng, các nhà văn nhà thơ đã đoạt giải Nobel văn chương các năm trước và những vị chủ tịch các hiêp hội văn học được sự kính trọng của các quốc gia họ sinh sống và trên thế giới.
Thường thường khoảng từ 600 đến 700 lá thư mời được gửi đi. Ðến tháng hai là thời hạn chót để khóa sổ cho danh sách những người chính thức dự giải. Hội đồng tuyển chọn sẽ lập danh sách những người hợp lệ có đầy đủ điều kiện dự giải lên Hàn Lâm Viện Thụy Diển để nơi này chính thức chấp thuận. Tháng tư bắt đầu giai đoạn tuyển chọn sơ khởi với một hội đồng từ 15 đến 20 giám khảo. Tháng 5, hoàn tất lựa chọn một danh sách chung cuộc gồm 5 người được chọn. Tháng 6, 7, 8 là giai đoạn các thành viên trong Hội đồng tuyển chọn đọc và nhận xét chọn lựa các tác phẩm của 5 người trong danh sách cuối. Mỗi người trong hội đồng phải soạn sẵn một hồ sơ tuyển chọn với đầy đủ các nhận xét, đánh giá và phê bình để phúc trình lên Hàn Lâm Viện thẩm xét.
Tháng 9, là họp toàn thể Hội Ðồng Tuyển Chọn và biểu quyết cho một người trúng giải. Hội đồng sẽ đọc kỹ tác phẩm của người chọn lựa cũng như so sánh với các người được chọn lựa khác trong danh sách chung cuộc đểcó một quyết định đồng nhất. Tháng 10, hồ sơ người trúng giải được trình lên Hàn Lâm Viện Thụy Ðiển biểu quyết. Người trúng giải phải được ít nữa hơn một nửa tổng số thành viên chấp thuận . Sau đó tên người trúng giải đuơc Hội Ðồng công bố vào thứ năm tuần lễ thứ nhất của tháng 10.
Giải Nobel văn chương năm nay, 2013, có tổng số hơn hai trăm nhà văn, nhà thơ được giới thiệu và tới bây giờ đã có 5 người được chọn lựa ở danh sách cuối cùng. Danh sách này được giữ cực kỳ bí mật nhưng cũng có rất nhiều tin đồn, nhiều nhận xét và chọn lựa những khuôn mặt văn chương trong danh sách ấy và sự hiếu kỳ về ai sẽ đoạt giải Nobel năm nay. Có nhiều chọn lựa, xếp hạng đặt tiêu chuẩn theo vùng ngôn ngữ hoặc vùng địa lý. Như vùng Châu Á, như vùng Bắc Mỹ, như vùng Châu Mỹ La Tinh, như vùng Châu Phi, như vùng Trung Ðông, như vùng châu Aâu. Hoặc các vùng ngôn ngữ: Anh, Pháp, Nga, Tây ban Nha…
Có rất nhiều sự kiện tức cười khi chúng ta nhìn về những người đã đọat giải những năm trước đây. Có rất nhiều tác giả rất xứng đáng để đoạt giải của Hàn Lâm Viên trao tặng.
Thí dụ như trường hợp Milan Kundura. Ðáng lẽ ông phải là người đoạt giải của những năm của thập niên trước đây. Ông là một nhà văn Tiệp Khắc sống lưu vong ở Pháp từ năm 1975 và thành công dân Pháp năm 1981. Tác phẩm của ông đã được coi là những biểu hiện của một thời kỳ đặc biệt với những khám phá và sáng tạo của một bút pháp bậc thầy về chữ nghĩa. Ðây là một khuôn mẫu tác giả mà Hàn Lâm Viện phải yêu thích nhưng không hiểu tại sao lại bị cố tình bỏ quên trong danh sách những người đoat giải hàng năm. Ông bây giờ đã 83 tuổi và trong danh sách những tác giả trong danh sách tuyển chọn cuối đều có tên ông. Và như vậy ông sẽ dài dài ở trong danh sách chung cuộc, năm này qua năm khác.
Salman Rushdie cũng là một tác giả British Indian đáng lẽ phải đoạt giải từ thập niên trước. Sau cuộc chọn lựa lạ lùng khi trao giải cho Dario Fo năm 1997, người đại diện ban tuyển chọn của Hàn Lâm Viện tuyên bố là trường hợp của Salman Rushdie cũng sẽ là một trường hợp có thể tiên đoán trước cho giải thưởng. Mặc dù những sức ép chính trị gây ra những xáo trộn khi năm 1989 ba thành viên của Hội Ðồng Tuyển Chọn rời khỏi Hàn Lâm Viện Thụy Ðiển sau khi vận động không thành công để trợ giúp Salman Rushdie đang bị giáo chủ Hồi giáo Ayatollah Khomeini lên án tử hình vì đã viết tác phẩm The Satanic Verses kết tội phỉ báng Hồi giáo. Ba vị giám khảo ấy là các ông Kerstin Elman, Werner Aspenstrom và Lars Gyllenste. Rushdie năm nay 64 tuổi, còn trẻ và nhiều người nghĩ rằng ông vẫn có hy vọng để đoạt giải nhưng trong hiện tình năm nay xem ra hy vọng của ông không nhiều lắm…
Carlos Fuentes là một tác giả lớn của dòng văn học Châu Mỹ La Tinh và cũng là một trong những candidate đáng chú ý của giải trong năm nay. Mặc dù trong số những người đoạt giải đã có hai người thuộc dòng Châu Mỹ La Tinh mà gần nhất là Mario Vargas Llosa giải Nobel năm 2010. Thành ra cũng có rất ít hy vọng Carlos Fuentes đoạt giải năm nay và cả những thời gian sau. Năm nay,Carlos Fuentes đã 83 tuổi và như vậy xem ra ông sẽ không bao giờlà người đoạt giải này cả.
Philip Roth cũng là một nhà văn Hoa kỳ và thời gian gần đây năm nào ở trong danh sách chung cuộc đều có tên ông. Nhưng hình như ban tuyển chọn của Hàn Lâm Viện Thụy điển hình như có ấn tượng về các nhà văn Bắc Mỹ, coi những nhà văn này có một sân chơi riêng và không hòa đồng với văn đàn thế giới. Do đó hy vọng đoạt giải cũng rất ít.
Nhà văn Canada là Margaret Atwood( 72 tuổi) dù có tác phẩm nổi tiếng và sắc thái đặc biệt nhưng cũng ít có hy vọng.
Adonis là nhà thơ Syrian là người đã ở trong danh sách chung tuyển của giải. Nhưng nhà thơ Thomas Transtromer đoạt giải có nghĩa là những năm sau sẽ hiếm thấy các nhà thơ trúng giải. Có người nói năm ngoái là cơ may cuối cùng của Adonis và ông chắc suốt đời không có hy vọng để đoạt giải.
Nhạc sĩ Bob Dylan cũng là một người có tên trong số những nhân vật có nhiều hy vọng. Nhưng ông chỉ là một nhạc sĩ Hoa Kỳ quan trọng trong môi trường âm nhạc nhưng trong môi trường văn học ông không có một vị trí nào nổi bật.
Nhà văn Nhật Bản Haruki Murakami cho đến bây giờ là tác giả sáng giá nhất dẫn đầu cuộc thi để đoạt giải Nobel văn chương năm 2013. Ông là tác giả của những tác phẩm nổi danh như Norwegian Wood, như The Wind-Up Bird Chronicle và gần đây nhất, IQ84. Trong kết quả đưa ra của tổ chức đánh cá độ Ladbrokes là 10/1. Năm 2011, người đoạt giải Nobel văn chương là nhà thơ Thụy Ðiển Tomas Transtromer chỉ là người thứ nhì trong bảng sắp hạng những người sẽ đoạt giải với tỉ lệ 9/2. Người đuơc xếp hạng đầu là nhà thơ Syrian Adonis với tỷ lệ 4/1 nhưng bị tụt hạng trong danh sách năm nay với tỉ lệ 14/1 cùng với nhà thơ Ðại Hàn Ko Un va nhà văn Albanian Ismail Kadare. Tên tuổi mới trong danh sách năm nay là nhà văn Hòa Lan Cees Nooteboom. Cũng theo danh sách của Ladbrokes, nhà văn Anh có tỉ số 50/1 đằng sau nhạc sĩ ca sĩ Bob Dylan tỉ số 33/1. Nhà văn Hoa Kỳ Philip Roth là 16/1 bên cạnh nhà văn đồng hương Cormac McCarthy, tác giả DoThái Amos Oz và tác giả nữ người Italian Dacia Maraini.
Năm 2013 các nhà văn vùng địa lý Châu Á có tác giả sáng giá là nhà văn Nhật Bản Haruki Murakami. Nhật báo New York Times đã nhận định Murakami là nhà văn Nhật có vị thế quốc tế và tác phẩm của ông được đón nhận và dịch ra nhiều ngôn ngữ khác nhau. Tuy nhiên ông tự nhận là mình đứng ngoài quỹ đạo của văn học Nhật Bản. Nhưng theo nhà văn Nhật Masatsugu Ono thì chính Murakami là người tạo ra diện mạo văn học Nhật Bản hiện đại và bản thân của ông là động lực thúcđẩy các nhà văn đồng hương, đồng thời. Và không hẳn ông là người phá bức tường bao quanh văn học Nhật mà là người có công đẩy văn học Nhật ra khỏi sự vây quanh ấy và đưa văn học Nhật đến với thế giới.
Theo tiểu sử được phổ biến ông sinh ngày 12 tháng 1 năm 1949 là một tiểu thuyết gia và dịch giả. Những tác phẩm tiểu thuyết và biên khảo của ông được chú ý trên toàn thế giới và đã đoạt nhiều giải thưởng văn học trongđó có giải Franz Kafka, giải Jerusalem. Tiểu thuyết của ông thường bị phê bình với các nhà phê bình văn học Nhật bản là đầy chất humor và siêu thực, chú trọng vào những luận đề về sự kết liên và sự đơn độc. Ông được coi là một trong những khuôn mặt tác giả lớn và quan trọng của văn học hậu hiện đại. Tạp chí The Guardian đã ca tụng Haruki Murakami là một trong những tiểu thuyết gia lớn nhất còn sống với sự hiện hữu vĩnh cửu từ những tác phẩm và công trình văn học.
Từ lúc ấu thời, Murakami đã chịu ảnh hưởng rất nặng văn hóa và âm nhạc Tây phương. Ông đã đọc sách với tầm kiến thức rộng mở và yêu thích các tác giả Hoa kỳ như Kurt Vonnegut và Richard Brautigan. Và chính vì ảnh hưởng sâuđậm của văn hóa Tây phương đã tạo thành một chân dung văn học độc đáo so với những nhà văn đồng hương đồng thời.
Năm nay người đoạt giải là Alice Munro, người Canada đầu tiên đoạt giải và là nhà văn nữ thứ 13 có vinh hạnh ấy. Trong thông báo biểu dương bà, Uûy ban Chấm giải đã đánh giá: “Những câu chuyện của bà thường xảy ra trong bối cảnh những thị trấn nhỏ, nơi cuộc đấu tranh để có được sự tồn tại được chấp nhận về mặt xã hội thường dẫn tới kết quả là những mối quan hệ căng thẳng và những xung đột đạo đức, những vấn đề xuất phát từ những khác biệt về thế hệ và xung đột giữa các tham vọng trong cuộc sống.”
Bà cũng được nhận xét một cách tích cực là “điều chỉnh một cách tinh tế cách kể chuyện với những điều đặc trưng là sự trong sángvà chủ nghĩa hiện thực tâm lý” Khi trả lời thông tấn xã AP, ông Peter Englund, thư ký thường trực của Hàn Lâm Viện Thụy Ðiển, một trong những giám khảo đã quả quyết: “bà đã lựa chọn một hình thức truyện ngắn vốn có khuynh hướng bị che lấp bởi các tiểu thuyết và bà đã tạo dựng nó tới mức gần như hoàn hảo.”
Trong tác phẩm, bà Alice Munro đã làm mới với một phương cách giống như cách mạng bố cục cấu trúc của truyện ngắn. Bà khởi đầu từ một nơi chốn địa điểm bất ngờ, rồi sau đó di chuyển tới lui sau trước theo thứ tự thời gian. Bà viết trong phong cách khiêm tốn pha chút hóm hỉnh nhưng rất tinh tế vào dòng truyện của mình, những chuyện kể mà nguồn gốc cảm hứng nảy ra từ không gian thời gian bà lớn lên ở những vùng đất quê mùa đầy chất nông thônở Canada. Một cách tự xét, bà đã cho rằng mình chuyên chú vào công việc viết truyện ngắn, một hình thức văn chương mà bà cho rằng đã giúp bà nổi tiếng và đoạt được các giải thưởng quan trọng. Ðó là một sự tình cờ thú vị:
“Nhiều năm tôi nghĩ rằng các câu chuyện ngắn chỉ là cách thực hành viết và cho tới khi có nhiều thời gian, tôi đã viết một cuốn tiểu thuyết. Sau đó tôi nhận ra rằng truyện ngắn là tất cả những gì tôi có thể viết và vì thế tôi tôi đã đối mặt với vấn đề này. Tôi cho rằng những nỗ lực đi sâu vào từng câu chuyện là một sự bù đắp xứng đáng.”
Khi nhận tin mình đoạt giải Nobel văn chương 2013, bà trả lời một cuộc phỏng vấn của truyền thông Canada: “Tôi không bao giờ nghĩ mình sẽ đoạt giải. Tôi thực sự ngạc nhiên và không thể nói ra bằng lời niềm vinh dự này. Tôi vô cùng vui sướng khi giải thưởng này làm người ta chú ý hơn tới văn học Canada. Tôi cũng hy vọng giải thưởng sẽ khiến cho mọi người nhìn nhận truyện ngắn là một dạng hình nghệ thuật quan trọng, chứ không phải chỉ là một loại gì đó để bạn giaỉ khuây trước khi có một cuốn tiểu thuyết để đọc.”
Mặc dù là một nhà văn nổi tiếng đoạt được nhiều giải thưởng văn học có giá trị, nhưng vẫn khiêm nhường như khi trả lời trên YouTube: “Tôi nghĩ tôi viết truyện ngắn thành cộng bởi tôi chẳng có tài năng gì khác. Tôi không thật sự là người trí thức. Tôi chỉ là một người nội trợ thường thường. Tôi không bao giờ chú ý đến những thứ gì khác do đó cuộc sống không ảnh hưởng đến tôi như đến với những người khác.”
Phê bình gia văn học người Hoa Kỳ David Homel nhận xét : “Bà Alice Munro không phải là một người giao thiệp rộng và nổi bật trong xã hội. Bà hiếm khi xuất hiện trước công chúng và chẳng bao giờ đi quảng bá và tự giới thiệu sách của mình. Trong tác phẩm bà viết về phụ nữ cho đối tượng đàn bà nhưng không hề bôi đen đàn ông.”
Mặc dù chỉ mô tả những khía cạnh của các mảnh đời sống thường ngày nhưng tác giả Alice Munro với tài năng sáng tạo của mình tạo ra được những truyện ngắn tràn đầy tính cách hiện hữu rất hiện sinh nhưng cũng trong sáng và rất rõ ràng. Những tuyển tập truyện ngắn nổi tiếng của bà mà Ban giám khảo gỉai Nobel văn chương đã kể đến là “Who Do You Think You Are”, The Moon of Jupiter, The View from Castle Rock, Runaway, Too Much Happiness… Ðề tài chính lấy từ cuộc sống thường ngày chân thực của một thị trấn nhỏ nơi bà đang cư ngụ và sinh sống. Những vấn đề xã hội hay đời sống thường nhật được quan sát và diễn tả với sự tinh tế của một nghệ thuật cao độ. Bà luôn để ý và phân tích đến từng chi tiết để tạo dựng những mẫu nhân vật đầy sức sống biểu hiện được những góc cạnh muôn mặt của cuộc sống. Ðặc biệt là những đoạn kết của những truyện ngắn , rất bất ngờ của những kết thúc khó đoán tạo sự thích thú cho độc giả.
Có một nhận xét về không gian của nơi chốn mà nhiều truyện ngắn của Alice Munro phát xuất từ đó. Chính xác đó là một nét đặc biệt của truyện ngắn của bà. Mặt khác với phong cách kể chuyện mạch lạc thông suốt, tác giả đã mang người đọc đến gần hơn những tình tiết và chi tiết của những mảnh đời sống của những nhân vật tuy có rất nhiều trong đời thường nhưng lại có những nét quen thuộc của đời sống thực tế. Trong nhiều chuyện đời sống của thị trấn Huron County ở Canada hao hao giống với phong cảnh thôn dã cuả đời sống ở các thị trấn miền Nam nước Mỹ. Những nhân vật phụ nữ của truyện ngắn của bà là những mẫu người rất phức tạp . Tác phẩm của bà là những minh họa cho nền văn hóa mà có người gọi là của miền nam Ontario Gothic.
Nhiều truyện ngắn của bà thường được so sánh với những truyện ngắn nổi tiếng. Trong tác phẩm, mà có người so sánh với truyện của Anton Chekhov. Bố cục chỉ là phần thứ nhì và ít khi xuất hiện. Với truyện ngắn Chekhov, Garan Holcombe ghi chú: “tất cả là căn bản dựa trên thời khắc linh hiện, của giây phút soi sáng bất ngờ hiện ra, là thể văn xúc tích ngắn gọn, là nét huyền ảo tinh tế, của những chi tiết khám phá tự nhiên.” Trong khi tác phẩm của Munro thì lại đề cập đến “tình yêu và sự nghiệp” Bà đã trao đổi với Chekhov sự ám ảnh của thời gian và rất nhiều thương xót về sự bất lực của sự kìm hãm hoặc ngăn ngừa sự chuyển động tàn nhẫn đi về phía trước. Những chuỗi luận lý liên tục – một phần là chứng cớ ở những tác phẩm đầu – là sự tiến thối lưỡng nan của những cô gái giữa tuổi tác dần đến và những yếu tố về gia đình cũng như không gian thời gian ở thị trấn cô ta lớn lên. Nhiều dữ kiện như sự gian khổ, tình bằng hữu, sự tán tỉnh, tình yêu, hôn nhân, bà đã đề cập đến để tập trung vào lứa tuổi trung niên của những người đàn bà sống cô đơn và những khi về gìa. Ðó là những đánh dấu sắc nét về hình dạng tượng hình của nhân vật trong kinh nghiệm tìm kiếm để soi sáng và có ý nghĩa trong từng mảnh đời.
Munro luôn luôn đi tìm kiếm để làm rõ ràng hơn những ẩn khuất của cuộc sống “vừa cứng rắn vừa đứng đắn trang nghiêm cùng một lúc” mà động cơ của tính tàn bạo và danh vọng và sự tin tưởng mù quáng có thể bốc cháy được “đặc biệt là kiến thức vô dụng” “âm vực rít lên chát chúa và hy vọng lẫn bị xúc phạm” “mùi vị đắng cay, sự nhẫn tâm và nỗi vui sướng” Phong cách của bà đã đặt những tuyệt vời trong khi xếp hạng với mỗi cắt xén những chi tiết khác trong phương cách giản dị hơn dễ dàng hơn những gợi hình cuộc đời.
Như Robert Thacker đã nhận xét: “Alice Munro đã viết và sáng tạo trong sự đồng cảm và liên hợp với độc giả, phê phán những biểu hiện với họ. Chúng ta nỗ lực để những tác phẩm của bà viết làm ra những vẻ chân thật – nhưng không phải là sự giống nhau về bên ngoài – mà gọi là văn chương hiện thực, nhưng hiếm hoi hơn cảm xúc của tự mỗi người.. với chính hiện hữu của hiện hữu nhân bản.”
Nguyễn Mạnh Trinh
Nguồn: Tác giả gửi


















