Nguyễn Mạnh Trinh
Một cuốn hồi ký viết về một thời kỳ đã lâu đến cả nửa thế kỷ của một ký giả nổi tiếng trên thế giới phải là những điều thật đặc biệt và có lẽ là những kỷ niệm không thể nào quên của cả một đời người cầm bút. Sau một thời gian dài là khoảng cách để nhìn lại sự kiện thì thời gian lâu dài ấy là men ủ để những dữ kiện thành hình trong chữ nghĩa. Lúc đang xảy ra, sự kiện thành những bản tin, thành những phóng sự phổ biến trên những hệ thống truyền thông đi toàn thế giới, và với nhiều ký giả thành những ấn tượng in sâu vào tim óc họ. Sau một thời gian dài, với tư cách của một chứng nhân, đã sống và đã thở trong môi trường khốc liệt của cuộc chiến, thành những chia sẻ với những người dân khốn khổ của một dân tộc bị lôi kéo vào cuộc chém giết đẫm máu, phi lý.
Và một cuốn sách vừa in xong trong năm nay của một tấm lòng nhân ái, tôn trọng sự thực rất nhân bản của người đối xử với người. Ðó là một quyển sách mà khi đọc xong tôi thấy thật cần thiết để chia sẻ với độc giả. Một cuốn sách đã gây một cảm giác rất mạnh mẽ trong tôi. Ðó là tác phẩm “ Ðức. A reporter’s love for the wounded people of Việt Nam” của tác giả Uwe Siemon-Netto, xuất bản năm nay và bản dịch Ðức. Tình yêu của một phóng viên cho một dân tộc nhiều đau thương” của hai dịch giả Lý Văn Quý và Nguyễn Hiền. Ðọc nguyên tác và đọc bản dịch, chúng tôi thấy được tấm lòng của cả hai phía tác giả và dịch giả đối với đất nước Việt Nam. Tác giả Uwe Siemon-Netto đã đến Sài Gòn làm ký giả trong suốt một thời gian dài đã có rất nhiều kỷ niệm với cảnh và người trong những hoàn cảnh đặc biệt của chiến tranh. Từ Long Khốt ở biên giới Cambodia đến cố đô Huế, trong những thời gian mà mực độ chiến tranh tàn khốc nhất, những ghi nhận để thành hồi tưởng đã tạo sức sống sinh động cho một hồi ký về một cuộc chiến có nhiều góc cạnh để nhìn ngắm. Cuộc chiến xâm lược của Miền Bắc Công sản, bắt đầu từ những hoạt động du kích của chiến tranh nhân dân sau chuyển thành một cuộc chiến tranh xâm lược với những trận đánh lớn dưới mắt nhìn quan sát của một ký giả trung thực đã thành những dữ kiện cho một tác phẩm có sức thuyết phục. Chiến tranh Việt nam đã bị những ký giả ngoại quốc thuộc phong trào phản chiến bị Cộng sản tuyên truyền mua chuộc để có cái nhìn méo mó về sự thực. Viết và kể lại những hồi tưởng, có lẽ là một cách nhìn lại và tìm ra những tệ trạng đã xảy ra trong ngành truyền thong và đã tạo hậu quả là kẻ ác đã thắng trong một cuộc chiến phi lý nhưng tràn đầy máu xương của những người bị hy sinh từ hai phía tham chiến. Chứng kiến những bi thảm, tiếp xúc với những người đang tham dự, với tấm lòng của một người nhân ái, tác phẩm đã làm rực rỡ hơn chân dung của một ký giả yêu nghề, tôn trọng sự thực.
Trước hết xin ghi lại vài chi tiết về tác giả Uwe Siemon-Netto. Ông sinh ngày 25 tháng 10 năm 1936 tại Leipzig, Germany, nơi mà bà ngoại ông theo đạo Lutheran là một khuôn mặt chủ chốt ảnh hưởng nhiều đến tâm tính của ông trong thời thơ ấu thời kỳ đang xảy ra cuộc thế chiến thứ hai . Là một ký giả truyền thông quốc tế, trong hơn 57 năm ông đã có mặt ở nhiều nơi trên thế giới và đã tường thuật những sự kiện cũng như nhận định về các biến cố trên thế giới như cuộc xây dựng và giật đổ bức tường Berlin của thời chiến tranh lạnh trên thế giới, hay cuộc ám sát tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy. Khi xảy ra biến cố vịnh Con Heo ở Cuba và thế giới đang ở trên bờ vực của chiến tranh nguyên tử thì ông đang ở Ðức và sửa soạn cưới vợ thì phải ngưng lại hôn lễ và tức tốc sang New York để thi hành nhiệm vụ của một ký giả.
Ông đã có một thời kỳ hành nghề ký giả tại Việt Nam trong 5 năm từ 1965 đến 1969 và năm 1972 thì tiếp tục trở lại đất nước này. Trong thời kỳ cuộc chiến Việt nam diễn ra rất khốc liệt, ông đã sống trong bối cảnh ấy và tự nhiên yêu cảnh và người của một đất nước mà theo ông là tràn đầy những bi thảm . Với những kinh nghiệm sống thực, với tâm tình chia sẻ, ông đã viết tác phẩm “Ðức. A reporter’s love for the wounded people of Việt Nam” xuất bản năm nay. Ông cũng viết rất nhiều thể loại, rất nhiều đề tài chẳng hạn về tôn giáo, về ruơụ vang, về thực phẩm, về âm nhạc thời trang cũng như âm nhạc cổ điển.
Ở tuổi 50, ông ngưng sự nghiệp truyền thông trở lại trường học và tốt nghiệp M.A. tại Lutheran Seminary tại Chicago và Ph. D. tại Boston University về thần học và xã hội học trong tôn giáo. Luận án tiến sĩ của ông “The Fabricated Luther: Refuting Nazi Connections and other modem myths” đã được ca ngợi một cách sâu rộng như là những âm thanh như sấm rền để đối thoại chống lại khuynh hướng làm hồi sinh lại tư tưởng phát xít của người Ðức thế kỷ thứ 16 mà lãnh tụ Ðức Quốc Xã Hitler là người kế thừa thực hiện. Ông cũng có thời gian là giáo sĩ cho những cựu chiến binh đã tham gia chiến tranh Việt Nam tại Minnesota và đã viết nhiều cuốn sách như cuốn “The Acquital of God. Atheology for Việt nam Veteran.” Ông hiện sinh sống tại Nam California, viết văn, dậy học và là “founding director emeritus” của Center for Lutheran Theology and Public Life tại Capistrano Beach. Ông và bà vợ người Anh,Gillian, còn một nơi cư trú khác ở vùng Charente ở tây nam nước Pháp.
Dịch giả Lý Văn Quý sinh ngày 23 tháng 10 tại Huế nhưng lớn lên và trưởng thành ở Sài gòn, học trung học ở Jean Jacques Rousseau và Petrus Ký, tốt nghiệp tiến sĩ Nha Khoa tai đại học Sài Gòn và gia nhập QLVNCH năm 1974. Sau 1975, bị tù Cộng sản 3 năm và sau đó được thả về và làm việc trong bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Năm 1991 ông định cư ở Hoa Kỳ diện HO. Năm 1992, đậu bằng hành nghề và làm việc tại Nam California cho đến hiện nay. ông là biên tập viên của Diễn Ðàn Cựu Sinh Viên Quân Y.
Dịch giả Nguyễn Hiền sinh năm 1951 tại Huế nhưng sống và trưởng thành ở Sài Gòn. Ông tốt nghiệp dược sĩ và năm 1973 gia nhập QLVNCH với cấp bậc trung úy dược sĩ. Sau 1975 bị tù Cộng sản và khi được thả về đã vượt biển năm 1980 định cư tại Hòa lan. Tốt nghiệp dược sĩ tại Hòa Lan và làm việc cho tới bây giờ. Ông cũng là một trong những biên tập viên của Diễn Ðàn Cựu Sinh Viên Quân Y.
Cách nay gần một nửa thế kỷ, một phóng viên trẻ tuổi người Ðưc đặt chân đến thành phố Sài Gòn một nơi chốn đẹp đẽ đầy quyến rũ. Ông bắt đầu một nhiệm kỳ làm việc ký giả săn tin trong 5 năm về một cuộc chiến khốc liệt mà tin tức lúc nào cũng luôn luôn xuất hiện trên các hệ thống truyền thông trên thế giới. Trong ký ức của Uwe Siemon-Netto, cho đến bậy giò ông cũng không quên được những tình cảm yêu thương mà ông dành cho những người bản xứ . Ông trân trọng và mê đắm những tà áo dài tha thướt thanh lịch của phụ nữ Việt Nam. Nhưng ông cũng mô tả những hành động tàn ác đẫm máu của những người Cộng sản Việt Nam và cuộc chiến gớm ghiếc mà ông là một nhân chứng. Oâng cũng trình bày nhiều dữ kiện nổi bật về lực lượng quân đội tham chiến với những nhân vật cả về hai phía, có thể làà những anh hùng, nhưng cũng có thể là những kẻ hung đồ tàn ác, hay những chính khách chân chính hoặc những khuôn măt chính trị ma quỷ. Ông cũng phác họa những nhân vật kỳ dị, những quái nhân thời đại và cả những người dân chất phác hiền hòa. Ông cũng đề cập đến những người phải buộc lòng cam phận chịu đựng bi thảm trong cuộc sống của một nước đầy thảm kịch chiến tranh. Những trẻ con mồ côi, những đứa trẻ bụi đời, tất cả những khuôn mặt đã để lại dấu ấn không quên trong tiềm thức của ông.Ông cũng đề cập đến những sai lầm tai hại có tính cách truyền thông chuyên nghiệp của những “ ngôi sao truyền thông” như Walter Cronkrite đã chuyển chiến thắng quân sự của quân đội Nam Việt Nam và Hoa Kỳ trong chiến dịch Tết Mậu Thân thành một thất bại về chính trị. Oâng cũng khóc thương vô số những nạn nhân vô tội của Cộng sản miền Bắc khi xâm chiến miền Nam với hậu quả tàn nhẫn là bỏ rơi chính quyền VNCH. Và ông cũng đã đàm luận về cái chiến thắng của kẻ ác. Và để kết luận, với con mắt quan sát từ Afghanistan, ông đã đặt ra một câu hỏi khó trả lời. Có phải là một xã hội dân chủ với khuynh hướng tự hấp dẫn về chính trị và tâm lý đã tự trang bị với vũ khí là tư tưởng rụt rè như thế để chống lại những kẻ thù là những chế độ độc tài chuyên chính?
“Ðức.A Reporter’s Love for the Wounded People of Việt Nam” nguyên tác hay “Ðức. Tình Yêu của một Phóng viên Cho một Dân tộc nhiều Ðau Thương” bản dịch,là một chuỗi tưởng niệm: “Cuốn sách này được viết nhằm tưởng nhớ vô số các nạn nhân vô tội trong cuộc xâm chiếm miền Nam Việt Nam bởi Cộng sản đặc biệt là: Hàng trăm ngàn đàn ông, phụ nữ và trẻ em bị tàn sát trong các làng mạc và thành phố, nhất là tại thành phố Huế; Hàng trăm ngàn chiến sĩ và công cán chính VNCH đã bị hành quyết, tra tấn hoặc bỏ tù sau khi chiến tranh kết thúc; Hàng triệu người đã bị xua duổi ra khỏi quê hương và hàng trăm ngàn người đã bị chết đuối trong hành trình vượt biển khi đi tìm tự do; Các chiến sĩ VNCH đã anh dũng chiến đấu khi đã mất tất cả và các tướng lãnh oai hùng đã tử tiết quyên sinh vào những giờ cuối cùng của cuộc chiến; các thanh niên nam Bắc Việt Nam động viên vào quân ngũ đã tử vong trong cuộc chiến gọi là “ chiến tranh giải phóng” nhưng đã không mang lại tự do cho ai; 58272 binh sĩ Hoa Kỳ, 4497 Ðại Hàn, 487 Úc, 351 Thái Lan và 37 Tân Tây Lan đã hy sinh tại chiến trường ViệtNam; các đồng hương người Ðức trong đó có Bác sĩ Horst-Gunther và Elisabeth Krainick, bác sĩ Alois Altekoster, bác sĩ Raimund Discher, giáo sư Otto Sollner, bá tước Hasso Rudt Von Collenberg và nhiều người khác đã đến Việt nam như những bạn thân hữu để giúp đỡ nhưng đã phải trả bằng sinh mạng của mình.
Bìa của cuốn sách cũng là một tác phẩm nhiếp ảnh đặc biệt của Hilmar Pabel, một trong những người chụp hình nổi tiếng nhất của giới báo chí Ðức và là một cựu chiến binh lão luyện phi thường. Tác gỉa viết: “Bức hình chụp tôi trên bìa của cuốn sách này là tác phẩm của anh Hilmar đã chụp nó trong một lúc tạm lắng giao tranh trong khu phố ở Huế.“
Tác phẩm viết về 6 hồi tưởng trở về những biến cố khác nhau, với những khuôn mặt khác nhau nhưng không thể nào quên trong ký ức tác giả. Ơû lời mở đầu, tác giả viết:” Cuốn sách này là một bộ sưu tập của những phác thảo riêng về những sự kiện tôi đã thấy. Ðã quan sát, đã trải qua và tường thuật lại trong những năm sống tại Việt Nam. Ðó là một loạt những câu chuyện xen kẽ nhau về những kinh nghiệm cá nhân mà phạm vi trải rộng từ điều khủng khiếp đến sự phi lý, từ các cuộc theo đuổi tuyệt vời đưa đến phù phiếm, từ nỗi tuyệt vọng đến niềm hy vọng. Tuy nhiên để nhắc nhở các độc giả và bản thân tôi rằng cuối cùng đây là một cuốn sách về một cuôc chiến tranh bi thảm được kết thúc bằng sự thất trận của các nạn nhân của kẻ xâm lược, cứ sau một vài chương tôi sẽ chen vào một đoạn hồi tưởng nhằm nhấn mạnh ý niệm này, bắt đầu bằng sự mô tả vụ giết người hàng loạt mà Cộng sản đã thực hiện trong cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân ở Huế.”
Ở hồi tưởng đầu tiên, Khi người chiến binh rơi lệ, tác giả viết: “Người lính chiến không dễ gì bật khóc, đặc biệt không bao giờ khi đang chiến đấu. Vậy mà tôi đã từng thấy những chiến binh rơi lệ vào đầu tháng 2 năm 1968. Lúc đó tôi đang tháp tùng một tiểu đoàn thuộc sư đoàn 5 Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ từ phi trường Phú Bài tiến dần vào Huế, lúc đó còn nằm trong tay Cộng quân. Khi chúng tôi tiến vào ngoại ô phía nam của cái thành phố xinh đẹp đã từng một thời là kinh đô của đế chế Việt Nam, xác người ngập đầy trên đường đến nỗi lính TQLC phải khiêng qua một bên dưới lằn đạn bắn tỉa của kẻ địch để mở đường cho đoàn quân đang tiến lên. Một số xác chết là những cụ già với bộ râu trắng bong nhưng hầu hết đều là phụ nữ và trẻ em ăn mặc đẹp trong dịp Tết, lễ đầu năm của Việt Nam. Qua những vết thương và thế nằm của họ, chúng ta có thể nhận ra là họ không phải bị giết bởi mảnh bom hay đạn lạc vô tình. Không những người thường dân này đã bị bắn chết ngay tại chỗ, bị tàn sát bởi Việt Cộng giống như hàng ngàn cư dân Huế khác mà sau này thân xác mới được tìm ra.
Nhà văn Ernest Hemingway chưa diễn tả đủ khi ông viết hồi tưởng về thời gian ông làm tình nguyện viên Hồng Thập Tự trong Thế Chiến thứ nhất “ Cảnh tượng của một phụ nữ bị giết thật là kinh hoàng” Ðối với người bình thường- đặc biệt là các chiến binh- cảnh tượng này quá sức chịu đựng của họ. Bởi vậy, phản ứng tự nhiên là những người lính trẻ Hoa Kỳ đã rơi lệ vì họ là những người bình thường, những người đàng hoàng mang niềm tin sâu sắc là Chúa đã tạo dựng nên người phụ nữ để được thương yêu, không phải để bị thảm sát…”
Hồi tưởng thứ hai là những điều tác giả nhận thức được từ chiến tranh nhân dân nơi mà du kích chiến đã đuợc thực hiện để sói mòn năng lưc chiến đấu của đối phương và làm mất kiên trì khi thực hiện cuộc chiến. Ði xuốing quân lỵ Long Khốt , gặp gỡ Ðại úy Ngữ một sĩ quan dạn dầy chiến đấu và đầy kinh nghiệm cùng với những chiến binh của Lưc Lượng Ðăc Biệt Hoa Ky, tác giả đã mắt thấy tai nghe nhữngchuyện thật mà tưởng như truyền kỳ về một cuộc chiến không quy ước đang diễn ra ở vùng xôi đậu sát biên giới Việt Cambodia. Những nhân vật ấy, sống động trong tâm thức tác giả dù đã trải qua hơn nửa thế kỷ.
Trong nhiệm kỳ làm việc ở Việt nam, tác giả đã nhìn thấy những cái chết đầy bí ẩnõ ở thành phố, hay ngoài chiến trường. Như cái chết của Tạ Vinh, một gian thương Hoa kiều mà có tin đồn rằng có một tử tội khác thế` mạng. Hay cái chết của một nữ doanh gia Hoa kiều bị xiết cổ bằng dây xich đứt cổ mà dư luận nghi là bị thanh toán vì mưu đồ tăng giá lúa gạo để đầu cơ tích trữ thực phẩm trong thị trường Việt Nam. Hoặc cái chết vì tình của một đại tá thuộc quân lực Hoa kỳ vừa hết nhiệm kỳ làm việc bị người tình trẻ đẹp có học thức đâm chết. Hay cái chết của Bernard Fall tác giả của tác phẩm” Street Without Joy”( Con phố buồn hiu) người đã nhận định rằng Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam mà không có một chút hiểu biết gì về những môi trường dấn thân vào.
Uwe Siemon-Netto đã có những chương sách sống động về hồi tưởng những ngày đau thương của Tết Mậu Thân ở Sài Gòn và Huế. Trước đó, ông đang ở Lào nhưng do những nguồn tin tình báo thì những ngày tết Mậu Thân sẽ xảy ra những biến cố rất quan trọng. Sau khi chiến trận xảy ra, ông đã tự hỏi tại sao cả thế giới đều biết, cả quân đội VNCH cũng biết mà các giới chức Hoa Kỳ thì không cho đến khi tòa đại sứ bị tấn công bằng đặc công. Thành phố Huế bị quân Cộng sản chiếm và trong thời gian này đã gây ra biết bao nhiêu là tội ác mà các nạn nhân là những người dân thường, những cụ già, phụ nữ vô tội. Thế mà , các tay phóng viên thiên tả chống chiến tranh đã bóp méo sự thực cho rằng đó là do bom đạn của Mỹ. Lý luận này cũng được Cộng sản ngay lúc đó và cả về sau chống chế để bào chữa tội ác của minh. Tác giả kể một câu chuyện :“ Trên con đường dẫn vào cố đô của Việt Nam chúng tôi thấy cơ man là các xác chết của dân thường riêng rẽ hay từng nhóm toàn là phụ nữ, cụ già và trẻ em. Họ đều ăn mặc tươm tất nhân dịp đầu năm mới. Qua vị thế của các tử thi chúng tôi thấy có nhiều phụ nữ đã cố gắng dùng thân mình để che chở cho con chống lại bọn sát nhân.
– Bọn Cộng sản bạn mày đã làm điều này, Peter. Tôi mắng Peter một cách tàn nhẫn( Peter Neuhauser, một ký giả người Aùo thiên tả, ác cảm vối chính thể VNCH và chống đối sự can thiệp của Hoa Kỳ vào chiến tranh Việt Nam) . Mặt hắn biến sắc trắng bệch:” Chắc chắn không phải đâu” Nó trả lời” những người này bị máy bay Mỹ giết.”
– Không đâu, Peter, thương vong vì không tập chẳng như thế này” tôi vặn lại” Trong những vết thương trên đầu và trên mình mẩy họ kia. Nhìn cách một số người phụ nữ đang giơ tay che mặt đi. Họ bị bắn ở khoảng cách rất gần. Tin tôi đi tôi đã thấy chuyện này rồi. Ðây là thành tích của những toán chuyên giết người. Những gì chúng ta đang thấy đây là bằng chứng của tội ác chiến tranh. Những người này đã bị thanh toán vì bất cứ lý do điên rồ nào đó mà bọn Cộng sản phải thủ tiêu cả đàn bà, trẻ em và người già.
Peter Neuhauser giữ im lặng nhưng tôi biết đã không thuyết phục được hắn. Chính hắn đã xác nhận với tôi khi chúng tôi gặp nhau vài tháng sau tại Hamburg. Nenhauser qua đời vài năm sau đó vì nguyên nhân tự nhiên nhưng vẫn trong tâm trạng tả khuynh không sao cứu vãn được. Suốt vài chục năm sau thỉnh thoảng tôi cảm thấy một nỗi đau đớn là mặc dù đã chứng kiến hàng loạt người vô tội bị thảm sát trên con lộ đến Huế, vậy mà điều này vẫn không lay chuyển nổi tâm trí của một gã mà đáng lẽ ra là một con người dễ mến này, Những ngày bên cạnh hắn đã dạy tôi một trong những bài học đáng sợ trong sự kiện Tết Mậu Thân là chẳng có gì ngay cả những bằng chứng không thể chối cãi nhất có thể mong làm thay đổi được những ý tưởng cố chấp về ý thức hệ”
Công luận Hoa kỳ đã không có sự kiên nhẫn để theo đuổi cuộc chiến cho đến lúc chiến thắng. Với sự tuyên truyền tinh vi của Cộng sản Việt nam với sự yểm trợ của hệ thống các nước Cộng sản trên thế giới, những khuôn mặt giết người khát máu được che phủ bằng những mặt nạ nhân từ chính nghĩa. Họ là người gây chiến tranh, đi xâm lược nhưng lại ngụy trang khéo léo bằng những chiêu bài tranh đấu cho độc lập tự do và được các phong trào phản chiến trên thế giới ủng hộ. Các nhân vật trí thức cũng bị mê hoặc bởi chiêu bài này nhưng hiện nay phần đông đã phản tỉnh và lên án chế độc độc tài toàn trị hiện nay ở Việt nam, những người đã thắng cuộc chiến 1954-1975.
Riêng, Uwe Siemon- Netto ngay từ lúc đầu đã nhìn thấy rõ được sự thật và đã viết với lương tâm nghề nghiệp trong sáng của mình. Sống trong môi trường quen thuộc của các ký giả quốc tế hành nghề tại Việt Nam, chứng kiến biết bao nhiêu điều giả dối, mà những ký giả , phóng viên không lương tâm đã hướng dẫn dư luận để hậu quả xảy ra là những kẻ ác là người chiến thắng. Nhưng nhìn về tương lai, ông vẫn thấy những hy vọng hiện ra cho đất nước Việt Nam :
“Tuy nhiên tôi không thể kết thúc câu chuyện ở đây bằng điều đen tối được. Là một người quan sát về lịch sử, tôi biết là lịch sử mặc dù dược khép kín trong quá khứ vẫn luôn luôn mở rộng ra tương lai. Là một Ki Tô hữu tôi biết ai là Chúa của lịch sử. Chiến thắng của Cộng sản dựa vào những căn bản độc ác khủng bố, tàn sát và phản bội. Hiển nhiên tôi không biện minh tiếp tục đổ máu nhằm thay đổi kết quả. Cho dù có khả dĩ đi chăng nữa. Nhưng là một người ngưỡng mộ tính kiên cường của dân tộc Việt Nam tôi tin là họ sẽ cuối cùng tìm ra phương cách ôn hòa và các lãnh tụ chân chính để lật đổ chế độ độc tài . Có thể phải mất nhiều thế hệ nhưng điều đó phải xảy ra.”
Nguyễn Mạnh Trinh
Nguồn: Tác giả gửi


















