Phùng Thành Chủng
Thời cụ Nguyễn Du, mỗi lần Cảo thơm lần giở trước đèn… hẳn là trước ngọn đèn… dầu lạc. Sang hơn thì đốt bạch lạp (nến) chứ dầu hoả (mà dân gian vẫn thường quen gọi là dầu tây) thì còn lâu. Bởi cụ mất năm 1820 mà mãi đến năm 1858, nghĩa là đúng 38 năm sau, liên quân thực dân Pháp – Tây Ban Nha mới nổ súng đánh chiếm bán đảo Sơn Trà, bắt đầu tiến hành cuộc vũ trang xâm lược nước ta. Còn thời của tiểu tử bây giờ là thời của nền văn minh công nghiệp, nghĩa là mỗi khi: Cảo thơm lần giở… đã có đèn… điện hẳn hoi, nhưng phải thú thật, đã từ lâu tiểu tử coi đó là những bài học luân lý xưa… như trái đất!
Vậy mà không hiểu trời xui, đất khiến thế nào, một lần trong cơn bĩ cực, tiểu tử bỗng sực nhớ tới một câu thuộc loại kinh điển của cổ nhân: Vạn khoảnh lương điền, thiên kim dụng tử, bất như nhất kinh (nghĩa là: vạn khoảnh ruộng tốt và nghìn vàng để lại cho con, không bằng để lại một cuốn sách…), tiểu tử liền vội vàng mở tráp, lấy đại một cuốn trong số cổ thư của ông cha, hầu tìm một chỗ dựa về tinh thần: qua cơn bĩ cực (tất sẽ) đến ngày thái lai. Sau khi phủ bỏ lớp bụi thời gian trên tờ bìa bằng giấy cậy, tiểu tử đọc được hai chữ Gia ngữ là tên cuốn sách. Lại giở đại một trang kiểu bói Kiều, tình cờ thế nào lại đúng bài luận của người xưa, luận về sự được mất của người làm quan. Đó là đoạn đức Khổng Phu Tử – ông thánh của đạo Nho – hỏi cháu mình là Khổng Miệt:
… – Từ khi ngươi ra làm quan, được những điều gì, mất những điều gì?
Khổng Mịêt thưa:
– Từ khi cháu ra làm quan chưa được điều gì mà đã mất ba điều:
1. Việc quan bận, không còn thì giờ học tập, vì thế mà học vấn không tấn tới.
2. Bổng lộc ít, không đủ chu cấp cho họ hàng, vì thế mà họ không thân thiết.
3. Công việc nhiều không thể đi thăm người đau, viếng người chết, vì thế mà ăn ở với bầu bạn không trọn vẹn.
Khổng Tử nghe nói, không bằng lòng, Ngài tìm đến học trò là Bật Tử Tiện. Lại hỏi Bật Tử Tiện những điều như đã hỏi Khổng Miệt.
Bật Tử Tiện thưa:
– Từ khi trò ra làm quan chưa mất điều gì mà đã được ba điều:
1. Những điều trước học nay đem ra thực hành, vì thế mà học càng rõ.
2. Bổng lộc dù bạc, cũng có thể chu cấp ít nhiều cho họ hàng, vì thế mà họ hàng càng gần.
3. Việc quan tuy bận, song cũng bớt được ít thời giờ đi thăm người đau, viếng người chết, vì thế mà bầu bạn càng thân.
Khổng Tử nghe xong khen rằng:
– Tử Tiện thật là người quân tử.
… Đọc đến đây, tiểu tử bỗng thấy bùi ngùi vì câu chuyện còn nóng… tính thời sự mà đức Khổng Phu Tử thì … đã ra người thiên cổ! lại chạnh nhớ đến niềm tâm sự của ông đồ Vũ Đình Liên gửi gắm trong hai câu thơ:
… Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?!
Còn đang nghĩ ngợi vẩn vơ thì… như một điều linh ứng! Trời đang quang, mây đang tạnh, bỗng đâu ào ào đổ lộc, rung cây… thấy ngay trước mặt là đức Khổng Phu Tử đang hỏi một vị hưu quan:
– Từ khi ngươi ra làm quan được những điều gì, mất những điều gì?
Vị hưu quan nét mặt rầu rầu, thở dài mà rằng:
Từ khi tôi ra làm quan chưa được điều gì mà đã mất ba điều:
1. Thưở nhỏ được bố mẹ và thầy cô giáo dạy cho những điều hay lẽ phải; lớn lên đi thoát li lại được đào tạo, bồi dưỡng để làm cho đúng, cho tốt. Vậy mà khi ra làm quan, học một đằng lại hành một nẻo, vì thế mà học vấn không tấn tới.
2. Con cái cậy thế bố chẳng chịu học hành, chỉ đàn đúm cờ bạc, rượu chè, hút sách rồi làm những chuyện bậy bạ, vì thế đâm ra hư hỏng
3. Khi còn đương chức, đương quyền, bị chữ lợi làm cho mù mắt không phân biệt được người tốt, kẻ xấu, vì thế từ ngày về hưu không ai đến nhà.
Nghe xong Khổng Tử không nói một lời, rũ áo đứng dậy bỏ đi. Tình cờ gặp ngay vị tân quan.
– Từ khi ngươi ra làm quan được những điều gì, mất những điều gì? – Khổng Tử lặp lại câu hỏi mà trước đó ngài đã hỏi vị hưu quan.
Vị tân quan tươi cười:
– Từ khi bản chức ra làm quan chưa mất điều gì mà đã được ba điều:
1. Được phân đất mặt đường. Bổng lộc, quà cáp, biếu xén nhiều, vì thế mà có nhà cao cửa rộng.
2. Con cái học hành lỡ có đứa nào ngu tối, bằng mọi cách rồi vẫn mỗi năm một lớp. Học xong ra trường đã có một công việc béo bở dấm sẵn đang chờ; vì thế mà được tiếng là hết lòng với con.
3. Song thân se mình, người đến quà cáp, thăm hỏi chật nhà; song thân nằm xuống người đến chia buồn, phúng viếng không dứt, vì thế mà được tiếng là có hiếu đối với bố mẹ.
Nghe đến đây, Khổng Tử chỉ còn biết ngửa mặt lên trời mà rằng:
– Hậu sinh khả ố! Hậu sinh khả ố…
Tiểu Tử giật mình tỉnh dậy thì ra là một giấc mơ. Cuốn Gia ngữ vẫn nằm lăn lóc bên cạnh.
Phùng Thành Chủng
Nguồn: Tác giả gửi


















