Lữ Quỳnh
Sớm ra đi sớm hoa không biết
Đêm trở về đêm cành không hay
Vầng trăng đôi lúc tìm ra dấu
Nơi góc tường in cái bóng gầy.
(Mai Thảo)
Không nhớ chính xác, chỉ biết trong khoảng thời gian đầu những năm 1970, nhà văn Mai Thảo đến Quy Nhơn. Buổi chiều, tôi thường lái xe xuống biển, đoạn cuối bãi, ngồi ôm vô- lăng nhìn trời nước. Hôm đó thấy hai người đàn ông đang đi về phía mình, vừa đi vừa ăn bắp. Tôi nhận ra anh Mai Thảo, vội xuống xe, tiến lại gần chào. Anh giới thiệu người bên cạnh, nhà văn Duyên Anh. Anh nói:
– Mình vừa xuống máy bay, lấy khách sạn xong là lang thang ngắm biển, vừa đi vừa thổi harmonica đây.
Anh giơ cùi bắp lên, cười. Tôi không gặp anh trước đó, chỉ một lần gặp thoáng anh ở tòa soạn Kịch Ảnh, đang lúc anh vội vã đi ra ngoài. Tôi không thích những tiểu thuyết của anh xuất bản từ feuilleton như Mười Đêm Ngà Ngọc, Để Tưởng Nhớ Mùi Hương…; nó có vẻ điệu đàng, xa rời hoàn cảnh đất nước lúc ấy. Tôi chỉ mê Mai Thảo qua Đêm Giã Từ Hà Nội, Tháng Giêng Cỏ Non, Bản Chúc Thư Trên Ngọn Đỉnh Trời…
Ngay tối hôm đó, tôi và Nguyễn Mộng Giác mời hai anh uống bia ở một quán trên bờ biển. Trong câu chuyện nhẹ nhàng, tận hưởng gió biển nhiều hơn là trao đổi văn nghệ. Lúc hơi men đã thấm, chúng tôi bắt đầu nhắc tới vài tờ tạp chí có vẻ muốn gây tranh luận trong độc giả. Tôi nhớ mãi câu nói của anh Mai Thảo đầy ám chỉ: Các anh đừng nghĩ rằng, chỉ có các anh biết yêu nước. Câu nói này đeo bám tôi suốt nhiều năm sau. Chỉ vì lúc làm các tạp chí Ý Thức, Đất Mới… anh em trẻ chúng tôi chủ trương một nền văn học dấn thân, thay vì thứ văn chương viễn mơ của nhiều tác giả thời đó. Nhưng sau này khi cuộc chiến qua rồi, thời thế đã phân minh ai thắng ai thua, những dày vò trước kia, dường như đã trở nên không tưởng, như Nguyễn Mộng Giác từng viết: Những đau khổ trong văn chương thời trước có nguồn từ vùng đất chiến tranh chúng tôi ở: những xác người máu me bê bết không phải là tưởng tượng từ một phòng trà có máy lạnh ở thành phố, mà là “quà” trưng bày ở công viên để răn đe những kẻ sắp nhập cuộc; những xóm làng không có tiếng gà gáy, chó sủa là quang cảnh bày hàng ngay trước mắt trong các cuộc hành quân nguy hiểm. Chất liệu là chất liệu thật, ước vọng là ước vọng thật, nhưng kết quả của những cái thật ấy, sau kiểm chứng của thời thế, lại là những ảo tưởng! (*)
Đêm đó chúng tôi nói chuyện rất khuya. Sau khi đưa hai anh về khách sạn, Nguyễn Mộng Giác hẹn anh Mai Thảo sáng hôm sau sẽ cùng nhau lên thăm trại phong Quy Hòa.
Phong cảnh ở Quy Hòa thật đẹp. Khu đất nằm trên một bờ biển dài cát trắng. Những trại bệnh được xây bằng gạch từ thời Pháp, nằm rải rác dưới những vòm cây. Anh Nguyễn Mộng Giác lấy xe của sở Học chánh đưa chúng tôi đi, từ Ghềnh Ráng lên một cái dốc cao ngoằn ngoèo. Các Sơ ban giám đốc, nói tiếng Pháp ra đón và hướng dẫn chúng tôi thăm các phòng bệnh, thăm nơi làm việc, thăm bệnh xá. Nhà văn Mai Thảo nói chuyện nhiều và lâu với các Sơ. Ở bệnh xá này, tôi nhớ đến một bác sĩ trẻ, trước năm 1975, ở quân y viện Quy Nhơn, cứ mỗi thứ năm hàng tuần vào đây khám, đôi khi giải phẫu cho các bệnh nhân nặng. Có lần trong lúc cắt chân đã bị hoại tử cho một người bệnh, y tá vô ý làm chảy máu tay anh. Anh lo lắng vì có thể bị lây bệnh, nhưng rồi sau đó anh không bận tâm nữa. Nhà văn Mai Thảo ngắm nhìn tượng các danh nhân đặt dọc các lối đi; những trang viết khắc trên đá thật rõ nét, đẹp. Ngoài ít Sơ người ngoại quốc, phần lớn là các nữ tu Việt Nam đã vâng lời Chúa chọn nơi chốn này phụng sự. Hình ảnh lở lói gớm ghiếc trên cơ thể người cùi là hình ảnh Chúa từ tâm trong lòng họ.
Các anh lần đầu thăm trại phong Quy Hòa, lúc ra về cảm thấy rất bàng hoàng và ngậm ngùi. Bàng hoàng vì cảnh đẹp không ngờ với bãi cát trắng trải dài thơ mộng dọc biển xanh; đường sá không một cọng rác; nhà thờ nhỏ mà uy nghiêm, tượng Chúa đặt nhiều nơi; trại bệnh được xây xinh xắn. Nhưng lòng lại ngậm ngùi khi nghĩ đến những phận đời đau đớn, hẩm hiu kéo lê tháng ngày vô vọng.
Ngày tôi định cư ở Mỹ, nhà văn Mai Thảo mất trước đó hai năm. Tôi chỉ biết những năm cuối đời của anh, qua hai nhà văn Nguyễn Mộng Giác và Viên Linh, trong thời gian tôi sống ở Quận Cam với các bạn.
San Jose, June 3- 2014
Lữ Quỳnh
(*) Tựa tập truyện Cát Vàng của Lữ Quỳnh, nxb Văn Mới 2006.
Bài đã đăng trong Thư Quán Bản Thảo số 60, tháng 7 – 2014
Nguồn: Tác giả gửi


















