Trần Đình Sơn Cước

Từ trái: Trần Đình Sơn Cước, Lữ Quỳnh, Trần Doãn Nho, Hoàng Ngọc Biên
Nếu ” một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy”, thì tôi phải đổi cách xưng hô với nhà văn Lữ Quỳnh bằng Thầy và em. Trong phần giới thiệu tiểu sử của ông đã ghi “… học sinh Quốc Học, Huế năm 1959-1961. Dạy học trường Bán Công Vinh Lộc 1962-1963…”. Như vậy, sau khi vừa rời khỏi bậc trung học, ông chỉ làm nghề gõ đầu trẻ vỏn vẹn một niên khóa tại quê nhà, rồi sau đó ông theo nghiệp binh mãi cho đến ngày tàn cuộc chiến. Tôi là lứa học trò thuộc niên khóa duy nhất đó. Những bạn học cùng lớp với tôi thuở ấy như Lam, Hòe, Son, Trứ… thường chỉ biết gọi ông là thầy Ngô (tên thật), mà không biết ông có viết văn với bút hiệu Lữ Quỳnh. Thầy dạy môn quốc văn lớp đệ lục với bài bình giảng ” Tâm sự chiếc giường hư” của Xuân Diệu rất hay và truyện “Anh phải sống” của Khái Hưng thật cảm động… . Riêng tôi, không hiểu do cơ duyên nào, không gọi ông bằng thầy mà lại được thân thiết gọi ông là anh Quỳnh.
Tôi là người cùng quê với nhà văn Lữ Quỳnh. Quê chúng tôi được xem là cù lao với những đồi cát trắng phau, những rặng dương liễu chạy dọc dài theo bãi biển từ cửa Thuận An đến cửa Tư Hiền. Một phía là biển, một phía bao quanh bỡi đầm phá Cầu Hai. Dãi đất này được chia thành nhiều làng, xã. Nổi tiếng hơn hết là làng Mỹ Lợi. Làng nầy nổi tiếng không chỉ vì cam, quít, mía, trầu, cau,.. mà vì còn là nơi sinh quán của Đức Từ Cung, mẫu thân của nhà vua Bảo Đại. Nhà văn Lữ Quỳnh thuở nhỏ sống ở một căn phố ngay chợ Mỹ Lợi. Mỗi ngày đi học, chúng tôi đều đi ngang qua chợ, trước ngôi nhà bày bán gạo và tạp hóa của ông. Nhưng ông rời xa làng rất sớm. Ông học tiểu học ở Truồi, học trung học ở trường Nguyễn Tri Phương và Quốc học Huế. Ông chỉ trở lại quê để dạy học một niên khóa như đã nói ở trên, rồi đi xa, xa mãi, cho đến tận bây giờ làm cư dân cuả thành phố San Jose, ít dịp về thăm lại làng quê cũ. Ông có nhiều năm phục vụ ở thành phố Qui Nhơn. Tại đây, ông đã thành danh, kết thân với nhiều nhà văn nổi tiếng như Nguyễn Mộng Giác, Võ Hồng, Hoàng Ngọc Tuấn,Trần Hoài Thư,…Do vậy ở quê tôi ít ai biết nhà văn Lữ Quỳnh gốc người Mỹ Lợi. Ký ức về tuổi thơ ở vùng đất này thỉnh thoảng vẫn hiện lên, dù nhỏ, trong một vài truyện ngắn của ông. Truyện ngắn “Bóng tối dưới hầm” (trong Cát Vàng), khi mô tả người đàn ông “nhớ tới một bài hát. Bài từ ngày chinh chiến mùa thu. Cái không khí bấy giờ thật cảm động. Đêm giã từ Mỹ Lộc. Người nhạc sỹ đứng bên ánh lửa bập bùng…”. Địa danh ông nhắc tới ở đoạn văn trên chính là làng Mỹ Lợi, thường được gọi là khu 3 Phú Lộc, một vùng tự do và nơi dưỡng quân của Việt Minh trong kháng chiến chống Pháp.
Quê tôi là một vùng đất cách sông trở đò. Muốn lên đến Huế hay vào Đà Nẵng, người dân phải thức dậy rất sớm để kịp chuyến tàu xuất phát từ chợ làng Phụng Chánh, lênh đênh hơn một giờ mới đến bến Đá Bạc.Từ đây đón xe đò lên Huế hoặc vào Đà Nẵng. Thương cho những cô gái Huế về làm dâu quê tôi rất ngại phải đi bộ qua mấy trãng cát nóng. Học trò quê tôi rất ham học, và học rất giỏi. Cùng họ với nhà văn Lữ Quỳnh, nổi tiếng với các anh Phan Ng., Phan N., Phan A.,…từng thi đỗ tú tài toàn phần hạng ưu ban toán, trúng tuyển vào trường Đại học Bách Khoa Phú Thọ, trường Đại học Y Dược ở Sài Gòn…. Nhà văn Lữ Quỳnh là người đam mê và đi trọn đường với văn chương từ những bài văn đầu tiên đăng trên báo Mai ( do ông Hoàng Minh Tuynh chủ trương) lúc còn đi học. Và tính cho đến nay, ông đã cho xuất bản 6 tác phẩm gồm các thể loại truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài, thơ và thơ của ông được các nhạc sỹ phổ nhạc. Nhưng chắc chắn số lượng tác phẩm ít hay nhiều chưa phải là điều quan trọng, vì mỗi trang viết, bài thơ của ông “đều bắt độc giả suy nghĩ .Bỡi chúng là kết quả của những suy nghĩ của anh và anh muốn gởi lên trang giấy. Không những anh sống để viết, mà sống để suy nghĩ và viết.” (theo Trần Hoài Thư).Trang viết của Lữ Quỳnh là những con chữ có ý thức và trách nhiệm. Tôi nghĩ rằng khi lập nhóm văn chương, ông và các bằng hữu của ông đặt tên cho tạp chí của mình là Ý Thức, chắc họ đã suy nghĩ kỹ càng và đó là tuyên ngôn mà họ muốn trình làng. Ý thức trong văn và thơ của Lữ Quỳnh đã rõ, nhiều nhà phê bình đã đề cập. Tôi nhận ra được ông còn trách nhiệm về những điều ông viết. Thế hệ của ông và tôi là thế hệ thanh niên miền nam trong chiến tranh, nên sự chọn lựa một thái độ dấn thân không phải dễ dàng. Miền nam những năm sau1963 đến 1967 là những năm tháng đầy biến động, tác động mạnh mẽ lên tình cảm, hành động của tuổi trẻ. Là người viết có ý thức, thơ văn của họ không thể nào không mang đậm nét thời cuộc. Tôi chú ý đến một vài bài thơ của Lữ Quỳnh (sau này không thấy đưa vào tuyển tập) trong giai đoạn xáo trộn đó của đất nước. Bài thơ “Ngọn Đuốc Nào” đăng trên tạp chí Bách Khoa số 225 ra ngày 15-5-1966, viết sau những ngày đồng bào xuống đường ở miền Trung chống chính quyền độc tài năm 1966. Tâm trạng của người viết không tránh khỏi những sôi động của thời sự:
“Tôi ngồi đó thân già như cổ thụ
Nỗi hờn căm làm chảy máu tâm hồn
Quá khứ đỏ trong từng đêm thức ngủ
Và bây giờ lòng cũng lửa vây quanh.”
Nhưng cho dù máu nóng tuổi trẻ của ông “… khốn khổ nghe người khô rơm rạ. Thèm một que diêm đốt cháy căm hờn”, Lữ Quỳnh vẫn đủ tỉnh táo nhận ra đang khoác trên người bộ quân phục. Đó là trách nhiệm và biết giới hạn của ông. Hoặc như trong bài “Người Lính Buồn” để nhớ nhà thơ Ngô Kha với “chiến đoàn Nguyễn Đại Thức” năm 1966:
“…chiếc cầu sắt đen
những thanh tà vẹt rỉ
tàu qua mỗi buổi chiều
để lại tiếng còi hoàng hôn
người lính tóc râu phủ mặt
bước lạnh lùng trên những thanh ray
buổi chiều ở Cầu Hai
mang trái tim Che…”
Ở đây, lần nữa Lữ Quỳnh lại ý thức và nhận ra trách nhiệm ,vì ông hiểu
“… cuộc chiến đầy ảo vọng.
rồi cũng lụi tàn nhanh.
dưới mưa phùn giá lạnh.
đoàn hàng binh về thành.
người lính buồn ở lại…”
Ngay đến những năm gần đây, lúc “lần đầu tiên ở xứ người. Hiểu thế nào là hạnh phúc…”, ý thức về hiện tình đất nước vẫn còn đeo bám ông. Khi thành phố Fukushima của Nhật Bản bị động đất tàn phá cùng lúc ngoài biển Đông tàu Trung Quốc bức hại ngư dân Việt, thơ ông lại viết :
“…mưa rơi trên những cành hoa
như nước mắt rơi ở Fukushima
như nước mắt rơi ở Trường Sa…”
Nhưng ý thức ông lên án:
“…sóng thần động đất
quỷ dữ thiên tai làm sao tránh được
dân Nhật kiên cường vượt nỗi đau
bọn cướp giết ngư dân
lấy tàu thuyền lộng hành giữa biển
dân Việt âm thầm chịu nỗi đau…”
Lòng yêu nước của ông thể hiện bằng sử dụng ngôn từ và sức mạnh của thơ!…
…Vì có ý thức và trách nhiệm trên mỗi trang viết của mình nên nhà văn Lữ Quỳnh tránh được sự cực đoan. Do đó, văn thơ của ông được nhiều độc giả ưa chuộng. Trong đời thường, ông được nhiều bạn bè quý mến. Ông có nhiều bạn văn trong và ngoài nước, nhiều thế hệ tuổi tác khác nhau.
Sống ở San Jose nhiều năm, tôi chỉ dám quẩn quanh lui tới với hai người, nhà văn Hoàng Ngọc Biên, một cột trụ còn lại của tạp chí và nhà xuất bản Trình Bày năm xưa, và ông, nhà văn và là thầy học cũ của tôi, một trong những người sáng lập tạp chí Ý Thức. Có những ngày cùng hai nhà văn mà sức khỏe đang sút kém dần, chúng tôi chỉ biết ngồi lặng lẽ bên tách cà phê starbucks ở thung lũng hoa vàng, được hai ông kể cho nghe vài mẩu chuyện văn chương xưa…
(7/ 2014)
Trần Đình Sơn Cước
Nguồn: Lữ Quỳnh gửi

















