Nhà văn Thinh Quang và Đường Huynh Mộng Đài

Posted: 10/09/2014 in Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích, Tùy Bút / Tản Văn / Ký Sự
Thẻ:

Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
Mừng ngày Thượng thọ 92 của nhà văn Thinh Quang

thinh_quang
Nhà văn Thinh Quang

Hội ái hữu Quảng Ngãi Bắc California họp mặt lần đầu tiên tại nhà của ông Hội trưởng Hoàng Ngọc Thành. Ông là giáo sư Tiến sĩ Sử học, người sinh trưởng tại phố Thu Xà thuộc tỉnh Quảng ngãi . Buổi họp mặt với mục đích đón mừng Xuân mới để đồng hương và thân hữu ôn lại những kỷ niệm vui buồn một thời trên quê nhà.

Buổi vui chơi có chương trình văn nghệ “cây nhà lá vườn”. Trong tiết mục góp vui, MC giới thiệu một nhà thơ lão thành đọc bài thơ sáng tác tại chỗ. Một cụ già đứng lên, thân hình mảnh khảnh, khuôn mặt xương xương nhưng đôi mắt sáng trưng đầy thần lực. Tuy đã cao tuổi nhưng nước da còn hồng hào. Từ dãy ghế đầu, cụ chậm rãi đến trước máy khuếch âm tự giới thiệu tên là Trần Dũ Lương. Cụ đã xúc cảm trước hai câu đối: “Thiên Ấn mây gom tình đất mẹ. Sông Trà nước tụ nghĩa anh em” treo trước cổng nhà chào mừng đại hội nên cụ nảy ý viết tặng H. N. là tác giả hai câu đối đó. Bài thơ có nhan đề :”Tụ Hội Quê Người”:

“Về đây tụ hội bên nhau
“Cho vơi năm tháng nỗi đau xứ người
Vầng trăng Thiên Ấn ngậm ngùi
Mây giăng nỗi nhớ, còn đâu chuông chùa
Sông Trà vắng tiếng chèo khua
Nắng nung bãi cát, gió lùa bãi dâu
Bút, Thiên (*) ghi dấu chưa nhòa
Quê người đất khách một nhà yêu thương
Cho dù cách trở quê hương
Lòng ta vẫn hướng một phương tình người”.

Khi đọc xong bài thơ kèm theo bút hiệu Mộng Ðài, tôi vội vàng đến ôm cụ như người học trò ôm vị thầy cũ đầy khả kính mà mấy mươi năm trời tôi xem cụ như một thần tượng cùng với nhà thơ Bích Khê. Hai người cùng thời và cùng quê Thu Xà.

Sau đó tôi gởi tặng cụ bài thơ: “Nỗi Ðau Còn Ðó”

“Nghe bài thơ tặng dạ nao nao
Nghĩa tứ tình thơ đượm sắc màu
Quê cũ biển trời xanh bát ngát
Kết thành giai điệu nhạc thanh tao !

Bác với tôi một dòng sông
Dòng sông nước mát tưới đồng phương Nam
Một trời thắng cảnh danh lam
Cho ta nỗi nhớ muôn vàn tuổi thơ
Sông Trà , Cổ Lũy mộng mơ
La Hà Thạch Trận chửa mờ dấu xưa
Quê người sớm nắng chiều mưa
Như cơn mộng ảo gió lùa mây trôi
Kỷ niệm xưa nửa cuộc đời
Nghe như mật đắng cuối trời vong thân
Nay dầu trẩy hội mùa Xuân
Nỗi đau còn đó thạch trầm tim ta
Mộ phần chiến hữu xót xa
Lối đi vàng úa máu pha sắc hồng
Tháng ngày nỗi nhớ bâng khuâng
Lòng ta hiển lộng tình nồng quê hương
Dấu xưa – một thuở – chiến trường !”

Bẵng đi thời gian. Một hôm bất ngờ tôi nhận được tạp chí Viễn Xứ từ miền nam Cali gởi tặng. Mở ra tôi thấy cả hai bài thơ “Tụ Hội Quê Người” của thi lão Mộïng Ðài và”Nỗi Ðau Còn Ðó” của Hạo Nhiên được đăng trên hai trang báo liên tiếp khá trinh trọng. Kèm theo tạp chí là một bức thư của vị chủ bút ký tên Thinh Quang thay mặt ban biên tập mời tôi đóng góp bài vở cho tờ báo qua sự giới thiệu của nhà thơ Mộng Ðài.

Hồi còn ở quê nhà tại thị trấn Sông Vệ, gia đình tôi và gia đình anh Trần Dũ Chiêu quen thân với nhau và thường hay lui tới thăm viếng trong những ngày lễ lạc. Anh Chiêu là một đông y sĩ có tiếng thời bấy giờ. Anh là vị thầy thuốc bắc trị bịnh rất mát tay có uy tín cả huyện Tư Nghĩa và có thể nói tiếng đồn cả tỉnh cũng không ngoa tý nào. Ngày tôi và gia đình lên đường sang Hoa Kỳ tỵ nạn, vợ chồng anh chị Trần Dũ Chiêu có đến thăm từ biệt. Nhân đó, anh mới tiết lộ có một người anh ruột là Trần Dũ Khiêm hiện đang sống tại Hoa Kỳ.

Những ngày đầu đặt chân trên đất Mỹ, chúng tôi như loài chim chích lạc vào rừng, bơ vơ, lạc lõng, ngơ ngác trước cảnh lạ quê người. Quyết vượt qua mọi khó khăn, vợ chồng tôi vùi đầu trong trường học, tất bật trong việc làm, chăm lo cho bầy con trẻ, không còn thời giờ rảnh rỗi để tìm kiếm bạn bè. Vì vậy mà tên Trần Dũ Khiêm, người anh ruột bạn tôi ở quê nhà không còn nhớ nữa. Khi nhận được tạp chí Viễn Xứ có đăng hai bài thơ nói trên mà chỉ có tôi và nhà thơ Mộng Ðài lưu giữ. Tôi cầm tạp chí đến thăm cụ Trần Dũ Lương mới hay cụ và nhà văn Thinh Quang là anh em con chú bác và Thinh Quang là bút hiệu của ông Trần Dũ Khiêm là anh ruột của bạn tôi thầy thuốc Trần Dũ Chiêu hiện sống tại thôn An Đại giáp ranh với thị trấn Sông Vệ.

Qua những lần thăm viếng chúc Tết hay chở giùm cụ Mộng Ðài tham dự đại hội đồng hương tôi được nhà thơ kể về kỷ niệm của hai anh em cụ ở quê nhà có khá nhiều chi tiết lý thú.

Cụ kể: “Tên thực của tôi là Trần Dũ Lương con ông bác còn Trần Dũ Khiêm là con ông chú. Ông tổ dòng họ Trần của chúng tôi là cụ cố tổ Trần Ký Cao đã truyền lại tám chữ: “Ký Chi Quang Dũ, Trường Phát Hường Tường” để quy định các chữ lót đặt tên cho con cháu các thế hệ sau. Chẳng hạn như anh em tôi lót chữ Dũ, kế đến con trai tôi là Trần Trường Nguyên, con của nó là Trần Phát Cường. Con trai chú Khiêm là Trần Trường Long, con nó là Trần Phát Ngọc… Hiện giờ những đứa chắc sinh ra ở Mỹ đều lót đến chữ Hường...”

Nghe đến đây, tôi chợt nhớ đến bài “ Ðế Hệ Thi” của vua Minh Mạng : “Miên Hường Ưng Bửu Vĩnh, Bảo Quý Ðịnh Long Trường, Hiền Năng Kham Kế Thuật, Thế Thoại Quốc Gia Xương” (*) Khiến tôi càng thêm kính nể anh em nhà họ Trần Dũ. Ðó là một dòng họ thuộc “Danh gia vọng tộc”.

“- Chú Khiêm nhỏ hơn tôi 4 tuổi, cụ Mộng Ðài kể tiếp. Chú ấy rất thông minh, học một biết mười. Tôi là người dẫn dắt Khiêm đi vào con đường văn học, về sau vượt trội trên tôi rất nhiều. Hồi chú ấy lên 14 tuổi học trường Tây về quê Thu Xà nghỉ hè, tình cờ tôi thấy trong rương của Khiêm có một tập thơ viết tay. Chong đèn đọc một mạch, tôi mới phát hiện tác giả tập thơ là một tài năng mới. Sáng ngày tôi hỏi Khiêm : “ Ê, chú mầy làm thơ mà tại sao không cho anh biết. Thơ chú khá lắm, anh sẽ chọn những bài thơ trong tập này lần lượt cho đăng trên báo đấy! Ðó là quyết định đầu tiên của tôi dìu dắt chú ấy vào con đường văn học sau này.

Mười lăm tuổi đã xuất hiện trên trang thơ của nhật báo Ðông Pháp. Mỗi lần qua chơi nhà thơ Bích Khê là tôi thường hay dẫn Khiêm theo. Có lẽ Khiêm tiếp nhận được kiến thức về thơ văn từ những cuộc mạn đàm giữa anh em tôi với nhà thơ Bích Khê. Thi sĩ Bích Khê có người cháu gái tên Mộng Cầm đẹp quý phái, nết na. Ông ấy mến Lương nầy lắm muốn mai mối cho cô cháu gái nên đề nghị tôi lấy bút hiệu Mộng Ðài. Lúc bấy giờ tôi thú thật đã có người tình đầu tiên tên là Hồng Lan. Bích Khê liền ứng khẩu đọc tặng tôi bài thơ như sau:

“Vân Anh hề Bùi Hàng
Lộng ngọc hề Tiêu Lang
Bí Phi hề lướt sóng
Huyền Hoàng hề Hương Ðiệp Lang”

Sau này Mộng Cầm là người yêu của Hàn Mặc Tử.”

Thinh Quang sinh ngày 17 tháng 9 năm Quý Hợi tức ngày 26 tháng 10 năm 1923 ( Tính theo tuổi ta năm 2014 tròn tuổi 92) .Sinh quán tại Thu Xà – một tiểu nhượng địa dưới thời Pháp thuộc nằm phía Ðông tỉnh lỵ Quảng Ngãi khoảng 10 cây số , cùng quê với cụ Bút Trà, Hồng Tiêu, các nhà văn nhà báo Nguyễn Vỹ, Hồ Văn Ðồng và giáo sư sử học Hoàng Ngọc Thành.

Ðầu thập niên 40, Trần Dũ Khiêm theo học các trường Trung học Chấn Thanh Tourane, Pellerin Huế, thi đậu bằng Brevet trường Pháp. Rồi tiếp tục vừa làm báo vừa đi học. Năm 1943 Thinh Quang cùng với ký giả Tế Xuyên lèo lái nhật báo Dân Báo và tuần báo Thanh Niên Ðông Pháp tại Sài Gòn. So tuổi tác đối với các vị trên, Thinh Quang thuộc hàng hậu bối. Năm 1944 viết cho nhật báo Tin Mới Hà Nội, đồng thời cộng tác với tuần báo Sports Jeunnesses de L’Indochine. Vào thập niên 50, 60 lại cộng tác với báo Tin Ðiển, Tiếng Chuông, Ngôn Luận, Trắng Ðen… Nói chung bút hiệu Thinh Quang xuất hiện hầu hết trong làng báo chí nước nhà.”

***

Thuở nhỏ, bọn tôi rất thích xem các trận đấu bóng tròn mà đội banh nổi tiếng nhất Quảng Ngãi là đội tuyển Thu Xà. Các trận tranh hùng giữa những đội banh của các huyện hay đấu giao hữu với các đội tuyển của các tỉnh lân cận cũng thường được tổ chức ở sân banh Thu Xà.

Dân ở đây giàu có nhờ buôn bán, tàu bè cập bến thông thương nên dân làng đóng góp xây dựng được sân banh thuộc hàng nhất nhì của tỉnh. Vì vậy mà bọn nhóc tôi kéo bộ hàng chục cây số đi xem các trận đá banh ở Thu Xà. Thông thường gần đến giờ khai mạc trận đấu, ông trọng tài mới xuất hiện. Một thanh niên dong dỏng cao mặc bộ đồ tây trắng, đầu đội chiếc mũ “kết” trắng, chân đi đôi giày cũng trắng. Mọi người nhao nhao : “sắp đá rồi”. Người ta đón rước ông trọng tài tuổi chỉ trên đôi mươi. Những người lớn tuổi biết rõ tài năng của vị trọng tài trẻ tuổi này ồ lên xít xoa : “Trọng tài Khiêm !” Từ đó tôi chỉ biết ông Khiêm là trọng tài đá banh. Ðâu có ngờ ông Trọng tài Trần Dũ Khiêm lại là ông Thinh Quang tài hoa người Quảng Ngãi của chúng tôi, là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà biên khảo, nhà dịch thuật…Lãnh vực nào ông cũng thành công.

Ông Anmota ( GS Phạm Huệ) người xã Ðức Phụng có bài viết trên Quangngai net khá dí dỏm về ông Thinh Quang: (Trích)

“…Tôi nhớ thì hình như những trận đá banh mà có trọng tài Khiêm…thì ít gây ra “bạo động trong sân” ít có lần “bạo động sau trận đấu”. Có thể ông có sẵn cái Ðức để ‘thổi còi’. Ông không làm tàng, làm phách, làm điệu, làm oai… Cái chữ Ðức đó là lòng công minh, chính trực. Vì tui quá thương kính ông mà nói thật lòng thì ông cũng chớ bịt mũi cười thầm: Tụi bay con nít nhà quê …nhầm người bên phố … Tụi bây chỉ biết mặt cân tạ … cân đường muỗng, bây đâu có biết tao xài cân tiểu ly… Tao có ‘bắt gian’, thiên vị cho đội tuyển nhà Thu Xà thì may ra người như Năm Chuột mới biết… và… chỉ có Trời biết ! Anh Thinh Quang hồi đó, tôi hay điều tra lý lịch – Anh học ở đâu…Rồi sau đó anh đi đâu… Anh làm gì ở đâu … Anh Thinh Quang … Vậy thì nhứt định là anh nói tiếng Tây ‘ngọt’…, nhứt định là anh nói tiếng ‘Tàu’ cũng phải ngọt… Hèn chi anh viết sách, anh dịch…ra tiếng Việt đều ngon ơ vậy…! Thế thì là… anh đâu có ở Thu Xà nhiều trước những năm 1942- 1943. Mà sao anh lại vô Sài Gòn sớm vậy…Mà sao… chưa thấy anh kể một chuyện tình nào của mình cho tụi này coi thử… Hồi mấy năm kháng chiến (46-54) …anh đi đâu mất, tui tìm hoài chẳng thấy anh đâu…” Hết trích

Trước năm 1975 tôi làm việc trong khối Chiến Tranh Chính Trị thuộc tiểu khu Quảng Ngãi. Hàng năm vào ngày lễ hay nhân dịp các đơn vị hành quân từ chiến trường được về hậu phương dưỡng quân, chúng tôi tổ chức đón tiếp, choàng vòng hoa cho các chiến sĩ . Mỗi lần như thế tôi thường đến các trường trung học trong thị xã nhờ các cô nữ sinh tiếp tay.

Vào năm 1968- 69 đúng ngày lễ Quân Lực 19 / 6, tôi quên khuấy mùa nghỉ Hè của học đường. Khi đến trường Nữ Trung Học QN cỗng đóng, trường lớp vắng hoe khiến tôi lo lắng vô cùng. Rất may, tôi chạy đến trường trung học Kim Thông thì còn các lớp học hè luyện thi của quý thầy dạy miễn phí. Tôi vào lớp học đang dạy luyện thi Pháp văn của thầy Khiêm. Sau khi nghe tôi trình bày về yêu cầu được giúp đỡ, thầy đã tận tình kêu gọi các em nữ sinh, hết lớp mình rồi chạy sang lớp khác khuyến khích các em lên xe đến choàng vòng hoa cho các anh chiến sĩ. Dáng thầy đạo mạo. Với bộ vét-tông trang nghiêm của vị giáo sư trung học khiến tôi liên tưởng đến bộ áo quần trọng tài thể thao trắng tinh cầm còi ngày nào vừa hiền hòa vừa thẳng thắn càng thêm phần kính phục trong lòng tôi. Ðầu niên khóa 69 -70, tôi đến trường Kim Thông để thăm Giáo sư Khiêm. Nhưng được Linh mục Hiệu Phó Nguyễn Thế Hoạt cho biết thầy Trần Dũ Khiêm đã ra lại Ðà Nẵng và đang đứng Chủ Nhiệm, Chủ Bút tuần báo Trường Sơn.

Mới đây, tôi có đọc tập hồi ký “Hai Mươi Năm Thăng Trầm” của ông bầu thể thao Ðinh Văn Ngọc có đoạn đặc biệt nói về sự hoạt động thể thao cũng như lãnh vực văn học của thầy Trần Dũ Khiêm như sau: Trích

“…Thinh Quang là một trong năm cây bút nổi bật nhất về bình luận chuyên đề “Thể Thao” của Việt Nam lúc bấy giờ gồm có :Thinh Quang, Nguyễn Ang Ca, Phan Như Mỹ, Huyền Vũ và Thiệu Võ.

Ðặc biệt, tôi phải giới thiệu anh Thinh Quang vì đối với anh có nhiều yếu tố đáng được cho ta lưu ý.

Anh từng là một cây bút then chốt cùng với anh Tế Xuyên lèo lái Nhật báo Dân Báo và Tuần báo Thanh Niên Ðông Pháp của cụ Trần Văn Hanh đứng làm Quản Nhiệm. Anh là một nhà thơ trước tuổi thành niên – mới 15 tuổi đầu đã có thơ đăng tải trên nhật báo Ðông Pháp – tờ nhật báo có tầm vóc lớn nhất Hà Nội của cụ Ngô Văn Phú – thân sinh của Ngô Văn Cường, người bạn nối khố với tôi.

Tôi bắt đầu quen biết anh vào thời điểm phong trào thể thao của Ducoroy tràn ngập cả hang cùng ngõ hẻm trên khắp bờ cõi Ðông Duơng. Lúc bấy giờ ngoài sở trường viết bình luận thể thao cho các báo Sports Jeunnesses de l’Indochine và nhật báo Tin Mới của anh Trần Văn Quý ở Hà Nội là những tờ báo có nhiều độc giả nhất, anh còn là một trong những trọng tài tên tuổi đương thời nữa.

Anh Thinh Quang ngoài việc làm báo anh còn viết đủ các bộ môn từ dịch thuật, trước tác,triết học đến cả bình luận, thi ca…Vốn đức tính khiêm nhường không thích phô trương nhất là tránh thường xuyên xuất hiện trước quần chúng – kể cả sự mời mọc của tôi. Có thể vì vậy anh ít khi được nhắc nhở đến dù khả năng và tài viết lách của anh ngang ngửa với Tử Vi Lang, Nguyễn Hiến Lê, v.v…

Tại hải ngoại anh từng Chủ Bút của các tạp chí Hồn Việt, New York Times và cũng là Chủ Bút cho Nhật Báo Trắng Ðen, Bán Nguyệt San Viễn Xứ…

Tính tình hồn nhiên, có cuộc sống giản dị, hòa nhã với mọi người nhưng đặc biệt “tếu” với bạn bè. Nhiều lần tôi ngỏ ý viết về anh song anh mỉm cười từ chối và cho rằng: “Những lời chúc tụng giống như hương thơm, ta chỉ nên để nó thoảng qua đừng nên để nó ngấm vào người” như Clarkmun đã nói.

Phải chăng đó là “Nhân Sinh Quan” của anh chọn phương châm này cho cuộc sống của mình?!” (Trích các trang 179-180 và 181 trong 20 Năm Thăng Trầm của Ðinh Văn Ngọc).

***

Nhà thơ Mộng Ðài hỏi:

– Hạo Nhiên có muốn biết giai thoại về bài “Hoa Thơ” nổi tiếng của Thinh Quang không ?

– Ðó là điều rất lý thú, thưa bác, tôi vội vã trả lời. Rồi cụ Mộng Ðài kể:

– Ðêm rằm Trung Thu năm 1940 ba người cùng rủ nhau xuống thuyền dạo chơi dòng sông Vực, có nước trà và bánh Trung thu mang theo. Tôi và Nhà thơ Bích Khê vừa ăn bánh dùng trà cùng đàm đạo với nhau về thơ văn, riêng chú Khiêm lại ngồi bên kia khoang thuyền gần tay chèo. Chú ấy ngắm cảnh làng quê dọc bờ sông soi mình trong dòng sông trăng rồi hý hoáy viết trên cuốn sổ tay dưới ánh trăng rằm sáng tỏ. Khi lên bờ, Khiêm dúi vào tay tôi mảnh giấy có ghi một bài thơ. Ðó là bài “Hoa Thơ”. Một bài thơ khổ năm chữ, dài 75 câu. Tôi đọc tới đâu người tôi lâng lâng tới đó. Tôi liền trao bài thơ cho Bích Khê. Ông ấy đọc xong trố mắt nhìn tác giả, rồi bảo : “Bài thơ tuyệt cú, một tài hoa trẻ của quê hương mình !”

Năm ấy Khiêm vừa tròn 18 tuổi mà đã nổi tiếng bài thơ “Hoa Thơ” đăng trên nhật báo Ðông Pháp, tờ báo có tầm vóc lớn nhất của Hà Nội lúc bấy giờ. Ðó là lúc bút hiệu Thinh Quang xuất hiện đầu tiên với bài Hoa Thơ, và từ đó bút hiệu nầy gắng liền với con đường văn nghiệp trong suốt cuộc đời. Vừa nói đến đây, với giọng đầy xúc cảm cụ Mộng Ðài ngâm nga một đoạn trong bài Hoa Thơ này:

“Nhấp nhô giòng sông Vực
Buổi tối rực trời Thu.
Mái chèo tung ngọc ướt
Sao rớt nhẹ xuôi dòng …

Ðây vũ khúc Nghê Thường
Chập chờn bên điện ngọc
Tre cong mình xõa tóc
Nhìn bóng rũ – sông cười
Nghe như tình thiếu nữ
Vừa chớm nụ đôi mươi
Nghe như hồn lãng tử
Trôi dạt giữa giòng đời …

Ngự thuyền chơi sông Vực
Cúi hái mảnh trăng mờ
Về chơi bờ sông Vực
Mơ cảnh Ðộng Ðình Hồ
Ðôi ta chừ – Lý Bạch
Vỗ tay cười khanh khách
Cầm bút trổ Hoa Thơ…”
Thinh Quang 1940

Ðọc xong bài thơ, mắt cụ Mộng Ðài lim dim như còn trong mơ, như hình ảnh tuổi thơ ngày ấy của hai anh em đã cùng quấn quít bên nhau nơi quê hương xóm Vạn, có dòng sông Vực, có núi Thiên Ấn, có Trà giang và muôn ngàn kỷ niệm dấu yêu với người em tài hoa Thinh Quang đã hiện ra trong trí nhớ của cụ già tám mươi.

Ngày tôi đến Nam Cali để ra mắt tập truyện ngắn “Lưu Dấu Ngày Xưa” tại hội trường báo Người Việt. Rất tiếc ngày hôm đó sức khỏe của nhà văn Thinh Quang bị yếu không đến tham dự được. Hôm sau, tôi và người bạn cùng quê Quảng Ngãi đến viếng và mang sách đến tặng ông. Dù bị cảm đã mấy ngày nhưng giọng nói của ông rổn rảng tràn đầy sinh lực, mang một xúc cảm trào dâng, phấn chấn trong lòng. Nhà văn tâm sự:

“Tôi rất vui mừng, giới trẻ Việt Nam nói chung và giới trẻ Quảng Ngãi mình nơi hải ngoại này đã thành công vượt bực trên mọi lãnh vực. Tôi hằng kỳ vọng nền văn học trong nước cũng như ở ngoài nước được tiến triển hơn lên, hy vọng trong làng văn hải ngoại và quốc nội xuất hiện nhiều nhà làm văn hóa lỗi lạc hầu bắt kịp với nền văn minh của nhân loại.”

Nhìn lên tủ sách đặt nơi phòng khách, những cuốn sách mang tên tác giả Thinh Quang dày có, mỏng có được sắp ngay ngắn nơi kệ trên cùng. Ðó là 18 tác phẩm của ông xuất bản tại hải ngoại chưa kể những tác phẩm xuất bản tại quê nhà trước 1975 bị thiêu hủy hay thất lạc. Chợt tôi thấy mình nhỏ nhoi như loài đom đóm về đêm nhấp nháy dưới ánh trăng rằm sáng rực. Tôi thật sự hãnh diện, quê hương núi Ấn sông Trà của chúng tôi có được một nhân vật kiệt xuất như nhà vănThinh Quang. Ông là cây cổ thụ trong nền văn học nước nhà, là ánh sáng của ngọn hải đăng soi đường cho hậu bối tìm về. Trước khi từ giã trở lại San Jose, tôi hỏi nhà văn Thinh Quang:

– Bác có mấy người con và có anh chị nào nối nghiệp văn chương của bố ?

Nhà văn Thinh Quang tươi cười:

– Vợ chồng tôi sinh được sáu con, hai trai và bốn gái. Chúng nó đều theo các ngành về khoa học kỹ thuật nên không đứa nào muốn mở tiệm sách để bán sách của cha nó theo câu tục ngữ : “Cha làm thầy con bán sách” mà! Ông lại tếu với bạn bè, đúng như nhà văn Ðinh Văn Ngọc nhận xét khiến chúng tôi không nín được cười. Ông mời dùng thêm trà rồi rung đùi ngâm nga: “Khuyên con chớ lấy chồng thi sĩ. Nghèo lắm con ơi, khổ lắm con”. Ðọc hai câu thơ của thi sĩ Nguyễn Bính, nhà văn Thinh Quang có ý xác nhận thêm rằng, trên đất nước tư bản này các con ông không theo nghiệp văn chương của cha, xét cho cùng cũng không đáng trách.

Tôi lại hỏi

– Trải qua cuộc đời trên 80 năm, bác có kỷ niệm nào sâu đậm nhất ? Với nụ cười chúm chím, nhà văn nói :
– Thuở học trường Pháp tên Chấn Thanh ở Ðà Nẳng, tôi và một số bạn học được đề cử theo đoàn Hướng đạo vào diện kiến đức vua Bảo Ðại. Người đã đến vuốt tóc từng đứa trẻ khen ngợi và khuyến khích chúng tôi học hành ngày càng tiến bộ, mỗi cháu sẽ là một nhân tài trong tương lai làm rạng rỡ cho non sông đất nước. Không hiểu sao hình ảnh ngày đó đã khắc ghi rất sâu đậm trong tiềm thức mình. Anh bạn Xược cùng đi với tôi hồi đó hiện giờ ở Úc có tên quốc tịch Úc là Tony Quang thỉnh thoảng điện thoại cho tôi là không quên nhắc đến kỷ niệm ngày đó. Còn một kỷ niệm về những ngày đầu bước chân vào nghề làm báo viết lách của tôi cũng sâu đậm lắm, nhưng để dịp khác tôi sẽ kể cho Hạo Nhiên nghe. Với bản tính khiêm tốn, nhà văn Thinh Quang không muốn nói về mình như nhận xét của ông bầu thể thao Ðinh Văn Ngọc, vì vậy tôi không dám nài ép ông và xin cáo biệt ra về.

Hơn tuần lễ sau, tôi nhận được cú phôn của nhà văn Thinh Quang:

“Tôi đọc xong tập truyện của anh rồi. Hãy tiếp tục đọc và viết nữa đi. Người làm văn học không ngưng nghỉ dù chỉ một ngày hay một giờ. Càng miệt mài đọc và viết, văn mình càng được tôi luyện. Tuyển tập Lưu Dấu Ngày Xưa của Hạo Nhiên có chỗ đứng trong nền văn học hải ngoại rồi đấy”.

Không biết rõ đó là lời khen, lời khuyên nhủ hay ngụ ý khuyến khích, an ủi nhưng lòng tôi vẫn thấy rộn ràng. Một nhà văn bậc thầy đã có nhận xét như thế đã củng cố thêm niềm tin trong tôi.

Nghĩ đến tinh thần nâng đỡ các nhà văn thuộc tầng lớp kế tiếp thì nhà văn Thinh Quang là bậc đàn anh dẫn đầu trên phương diện này.

Ngày tôi ra mắt tác phẩm “Hương Bồ Kết” được nhà văn Thinh Quang gởi thư chúc mừng như sau:

Anh Nguyễn Tấn Ích thân mến

Nhân buổi Giới thiệu Tác Phẩm “Hương Bồ Kết” anh là tác gỉa, tôi gởi đến anh một bài viết ngắn về cảm tưởng của tôi sau khi đọc xong tập Truyện Ngắn Hương Bồ Kết để thay lời chúc mừng sự thành công của anh trên lãnh vực văn học và xem như món quà mọn của người đồng hương Quảng Ngãi từ phương xa gởi đến chia vui cùng anh và Ban tổ chức : (trích)

Ðọc xong câu chuyện Hương Don Quê Nhà và sau đó nhiều mẩu chuyện kế tiếp, chuyện nào cũng đem lại cho tôi ngạc nhiên, nhưng chuyện làm cho tôi ngỡ ngàng nhất – đó là chuyện Hương Bồ Kết. Mới đọc hết một đoạn đầu “Hương Bồ Kết”, đã khiến tôi sẻ sàng đặt tập truyện xuống, không đọc vội mà để đè nén lại sự xúc động và cũng đồng thời để lôi kéo lại cái hương vị thật đặc biệt của quê hương – mà đã từ lâu rồi trên 40 năm trường tôi đã đánh mất nó.

Cái mùi vị thật quê hương không hề pha trộn với những mùi hương lạ mà tôi không bao giờ có thể quên được. Cái mùi vị Bồ Kết có thể đó là cái mùi “di truyền” từ lòng đất Quảng Ngãi bám vào trong cái “thăm thẳm” vừa đậm đà, vừa thi vị và cũng vừa thật lãng mạn xuất phát từ hương vị cây cối đặc sản của xứ sở Núi Ấn Sông Trà…

Ðọc Hương Bồ Kết tôi vừa đam mê ngây ngất chất thơm của hương vị có pha mùi lá chanh thật nhẹ nhàng thoang thoảng với mùi vị của bồ kết, nó cuốn hút tôi cũng một cách thật nhẹ nhàng đi từ suy tư này đến suy tư khác. Bồ Kết. Hương Bồ Kết.

Tiếp đến truyện “Chị Hai Con Bác Tôi”khiến tôi liên tưởng đến Boris Pasternak – nhà văn nổi tiếng của nước Nga – tác giả của câu chuyện “Bác sĩ Zhivago”.

Truyện “Ma Soeur, lavie” của Boris Pasternak phát hành 1922 sau cuốn Bác Sĩ Zhivago…đã làm cho người đọc bùi ngùi thương cảm.

Hai nhân vật chính trong “Ma Soer, la vie”của nhà văn hào Nga và “Chị Hai Con Bác Tôi” của Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích cùng đứng trước một hoàn cảnh,cùng từng sống dưới ách độc tài, cùng căm hờn và chịu đựng, nhẫn nhục , hy sinh và cùng một tinh thần bất khuất như nhau …

Đọc đến truyện “Chị Hai Con Bác Tôi”, tôi bỗng liên tưởng đến Boris Pasternak – nhà văn nổi tiTôi bàng hoàng, không ngờ mới đây 3 năm “Một Thoáng Tuổi Thơ”tái bản lần thứ 2 của Hạo Nhiên – người cùng quê hương, cùng một giòng Vệ Giang, cùng một cảnh Núi Ấn, Sông Trà – tôi kỳ vọng – Hạo Nhiên sẽ còn tiến lên hơn nữa; nhưng thật ra không phải vậy… Hạo Nhiên đã vượt quá xa tầm mắt của tôi – nhà văn trẻ này đã trở nên một ngôi sao lạ giữa vòm trời văn học hải ngoại.

Anh Hạo Nhiên, tôi thành thật ca ngợi anh và lần này thì sự ca ngợi cao hơn bội phần.

Thân ái và Chân thành
Thinh Quang”

***

Sáng sớm ngày 12 tháng 10 năm 2004 bầu trời chưa sáng tỏ, tôi nhận được cú phôn của nhà văn Thinh Quang:

“Hạo Nhiên ơi, anh Lương của tôi mất rồi !”

Như tiếng kêu thảng thốt rồi nín lặng. Một sự im lặng trong cơn xúc động nghẹn ngào. Phần tôi thì ngỡ ngàng, bối rối. Mấy tháng trước đây tôi nghe tin nhà văn Thinh Quang có lên San Jose thăm ông anh Mộng Ðài nhưng khi biết được thì ông đã về lại Nam Cali.

Cách đây mấy tháng, vợ chồng tôi có đến thăm cụ Mộng Đài, thấy cụ vẫn còn khỏe, sáng nào cũng đi dạo trong sân, và chỉ vài ba tuần đây thôi tôi điện thoại hỏi thăm sức khỏe cụ, được người con gái cho biết hiện giờ hai chân cụ yếu không đi dạo bộ được, nhưng đầu óc còn minh mẫn lắm.

Hạo Nhiên ơi, nhà văn Thinh Quang lên tiếng tiếp:

– Hiện giờ trong người tôi không được khỏe, cháu lớn của tôi là Trần Trường Long đại diện gia đình đến San Jose đưa Bác nó về nơi an nghỉ cuối cùng. Hạo Nhiên và Hội Ái Hữu Quảng Ngãi cố gắng tiếp sức với gia đình Trần Tường Nguyên ( con trai của cụ Mộng Đài ) và các cháu trên đó nhé.

– Xin bác yên tâm. Ðó là điều hẳn nhiên, tôi trả lời.

Giờ đưa linh cữu nhà thơ Mộng Ðài đến mộ phần, tôi nhận được bài thơ của nhà văn Thinh Quang chuyển tay qua cháu Trần Trường Long, con trai lớn của ông:

ANH ÐÃ ÐI RỒI

Anh tôi đâu còn nữa
Tất cả đã xa rời
Người đi vào muôn thuở
Dáng xưa nay còn đâu!
Hồn anh về cõi Mộng
Lạc lõng nẽo Tuyền Ðài
Non tiên chừ mở rộng
Chữ nghĩa mộng đầy thơ ./

Thinh Quang

Bài thơ thật ngắn nhưng mang đầy nước mắt tiếc thương. Nhà văn Thinh Quang như gởi cả trái tim quặng thắc của mình cho đường huynh một thời sống bên nhau như tơ liền mối như cây liền cành. Tôi ngậm ngùi đốt bài thơ “Anh Ðã Ði Rồi”, rải tro tàn trên quan tài người quá cố và xin được thay mặt nhà văn Thinh Quang tiễn đưa cụ Mộng Ðài, người con của quê hương “Núi Ấn Sông Trà” về bên kia trời miên viễn ./

Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích
Trích trong “ Kỷ Niệm Khó Quên”

(*) Bút, Thiên: Hai thắng cảnh ở Quảng Ngãi, ngọn Thiên Bút và núi Thiên Ấn

Nguồn: Tác giả gửi

Đã đóng bình luận.