Nguyễn Mạnh Trinh
Nhà văn Pháp Patrick Modiano, 69 tuổi, vừa được vinh danh và đoạt giải Nobel về văn chương năm 2014. Hàn Lâm Viện Thụy Ðiển và ban giám khảo giải thưởng đã nhận định: “Nghệ thuật của hồi ức mà ông đã làm thức dậy những số phận nhân bản hầu như không thể nhận thức được và khám phá ra thế giới nhân sinh không thể che giấu được của thời bị chiếm đóng”
Patrick Modiano đã trả lời câu phỏng vấn đầu tiên kể từ lúc biết mình đoạt giải. Ông giải thích rằng ông nghe tin tức ấy từ điện thoại của người con gái khi ông đang đi trên đường phố Paris. Ông nói ông rất bị khích động nhưng ông vẫn tiếp tục đi.. Trả lời câu hỏi phương cách nào để đoạt giải Nobel, ông như nín lặng với cảm xúc: “Tôi không nghĩ điều đó xảy ra với tôi, mà đúng là nó tác động mạnh vào tôi”
Ông nói ông bắt đầu viết văn khi ông còn rất trẻ: “Ðó là một vài điều đã thành một phần đời sống của tôi từ thuở bắt đầu”
Ông cũng từ khước sự giới thiệu những cuốn sách có chất tư riêng của mình với những độc giả chưa quen thuộc với phong cách viết của ông khi nói rằng ông đã có thật nhiều dấu ấn khi đã tiếp tục viết về một điều tương tự “đã trong phương cách đứt đoạn” từ hơn 45 năm nay: “Ðó là tôi đã chấm dứt thời gian ngưng nghỉ, và tiếp tục với tầng lớp kế tiếp của cùng một cuốn sách.”
Ông cũng xác nhận sẽ đi đến Stockholm vào tháng mười hai này để nhận giải thưởng cùng với gia đình. Ông có hai con gái và một cháu ngoại là người mà ông đã dành tặng giải thưởng.
Pascale Richard phát ngôn viên của Swedish Public Broadcaster SVT đã kết luận: “Hai vợ chồng Patrick Modiano đang ăn trưa ở một tiêm ăn. Ông rất hạnh phúc và cười rất tươi trong khi vợ ông thì reo lên vì mừng vui.”
Trong một cuộc họp báo ở Paris, với một khuôn mặt còn nhút nhát với đám đông, ông đã biểu lộ sự kinh ngạc của mình khi đoạt giải và nói rằng ông đã cố tâm tìm hiểu tại sao ông lại được chọn lựa: “Tôi không mong chờ bất cứ điều gì như thế này.”
Patrick Modiano đã thắng được tiểu thuyết gia Nhật Bản rất được độc giả quí mến Haruki Murakami và thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà soạn kịch Kenyan Ngugi wa Thiongo trong vòng tuyển chọn sau cùng. Tác giả Pháp cuối cùng đoạt giải Nobel văn chương là Jean-Marie Gustave Le Clezio năm 2008.
Modiano sinh trưởng ở vùng Boulogne-Billancourt. Cha của ông, Albert Modiano (1912-1977) sinh ở Paris là một người Do Thái chính gốc. Là con cháu của gia đình Sephardic danh tiếng của Salonica. Mẹ của ông, Louisa Colpjin, một nghệ sĩ trình diễn người Belgian có tên khác là Louisa Colpeyn. Hai người gặp nhau trong thời kỳ nước Pháp bị Ðức chiếm đóng trong Thế Giới Chiến tranh lần thứ hai và bắt đầu có những quan hệ hơi ám muội. Tuổi thơ ấu của Modiano hầu như chung một áp lực của mặc cảm giữa sự vắng mặt của người cha hoặc nghe được những chuyện không tốt đẹp của ông và người mẹ thì luôn luôn đi trình diễn xa. Ông đã xong bậc thứ nhì của trung học với sự giúp đỡ của chính phủ. Ðiều đó khiến ông gần gũi hơn với người anh Rudy, người đã chết vì bệnh ở tuổi lên mười (những tác phẩm của Patrick Modiano trong thời gian 1967 đến 1982 để dành riêng tưởng niệm thương nhớ đến Rudy). Nhắc lại một giai đoạn bi thảm trong thiên hồi ký nổi tiếng “Un Pedigree”: “Tôi không thể viết tự truyện, do đó tại sao tôi gọi là “pedigree”. Ðó là cuốn sácht ôi cư xử nhẹ nhàng hơn đối với những người khác như là cha mẹ tôi đã hành xử với tôi. Lời rao truyền chấm dứt thời thơ ấu của tác giả, người đã tiếp tục giữ gìn nguyên vẹn dấu ấn tấm lòng hoài hương của cả một thời kỳ.
Modiano học ở the Ecole du Montcel primary school ỏ Jouy-en-Josas, rồi ở the College Saint-Joseph de Thônes ở Haute-Savoie và rồi Lycee Henri-IV high school ở Paris. Khi học ở Henry IV, ông học môn lượng giác với nhà văn Raymond Queneau, người bạn thân của mẹ ông. Ông nhận bằng tốt nghiệp tại Annecy nhưng không học tiếp cho học vị cao hơn ở đại học.
Modiano thành hôn với Dominique Zehrfuss năm 1970. Trong một cuộc phỏng vấn của báo Elle, bà đã kể về kỷ niệm thê thảm của ngày cưới. Trời mưa. Một ác mộng thực sự. Người rể phụ là Queneau, người đã cố vấn cho Patrick từ thuở còn thơ ấu và Malraux bạn của cha tôi. Họ bắt đầu nói chuyện về Dubuffet và biến chúng tôi thành những người đang xem một trận quần vợt. Và rồi còn tức cười hơn nữa khi có vài tấm hình nhưng người có ống kính chụp lại quên mang theo phim. Thế là chỉ có một tấm hình duy nhất có hình ảnh của chúng tôi, ở phía dưới và đằng sau cây dù che. Nhưng cuộc hôn nhân ấy đã có hai người con gái: Zina sinh năm 1974 và Marie sinh năm 1978.
Sự nghiệp văn học của Patrick Modiano bắt đầu khi ông gặp nhà văn Queneau, tác giả của “ Zazie dans le metro”. Queneau đã giớí thiệu ông vào thế giới văn học khi cùng Modiano đến dự một dạ tiệc của một nhà xuất bản danh tiếng mà sau này trở thành nhà xuất bản của ông, Éditions Gallimard. Năm 1968, ông xuất bản tác phẩm đầu tiên “La place de L’étoile”, một tiểu thuyết của thời đại chiến tranh xoay quanh những người Do Thái tham dư trong thời thế ấy. Ông viết sau khi đã đọc những tác phẩm của Queneau. Tiểu thuyết đầu tay này của Modiano đã làm cha ông nổi giận bất bình đến nỗi đã cố gắng cho đi thu mua tất cả những quyển sách để phá hủy. Trước đó khi Modiano bị “mắc cạn” ở Paris trong thời gian nước Pháp đang có chiến tranh ở xứ Algerian, ông có hỏi xin cha một chút trợ cấp tài chính nhưng ông cha này đã từ chối và gọi cảnh sát.
Cha ông là một người buôn bán Ý gốc Do Thái sống ở Paris trong thời gian Ðức chiếm đóng và đã hợp tác với chính quyền Ðức Quốc Xã để buôn bán chợ đen làm giàu. Chính vì mặc cảm của dấu tích nhơ bẩn ấy mà trong tác phẩm của ông đầy những nỗi ám ảnh. Các tác phẩm của ông thường viết về đề tài của không gian, thời gian mà Ðức chiếm đóng nước Pháp với những cá tính về ký ức, nỗi quên lãng, thân phận con người trong thời thế hỗn mang và nỗi ân hận xót xa của cảm giác tội lỗi.
Năm 2007, ông đã phát biểu khi xuất hiện trong một chương trình truyền hình “ông đau khổ vì đã phải bị sinh ra đời” và mô tả chính cuộc đời mình là “sản phẩm của một thời đại quái đản lạ lùng, khi những người gặp nhau lẽ ra không nên hội ngộ mà lại thành vợ chồng và có con cái như một cách thế ngẫu nhiên tình cờ.”
Năm 2010 khi xuất bản bản dịch Ðức ngữ tác phẩm La Place de L’Étoile khiến Modiano đoạt giải Prize of the Southwest Radio Best-of-List từ đài phát thanh Sudwestrundfunk cho rằng tác phẩm này là một tác phẩm viết về Post-Holocaust. Ðúng 42 năm cuốn sách không được dịch ra Ðức ngữ là một sự việc bất ngờ khi hầu hết các tác phẩm của Modiano được chuyển ngữ sang ngôn ngữ này là một sự kiện rất “controversial” và trong thời điểm châm biếm những người ủng hộ tư tưởng anti-Semitic. Tác phẩm La Place de L’Étoile không được in bản Anh ngữ.
Năm 1973, Modiano cùng viết kịch bản Lacombe, Lucien, một phim của đạo diễn Louis Malle với chủ đề về một cậu bé đã liên hệ với mật thám “French Gestapo” của Ðức Quốc Xã sau khi từ chối làm việc với tổ chức “French Resistance” của kháng chiến Pháp. Cuốn phim đã tạo ra nhiều điều tiếng phê phán vì đã làm mất đi sự phân định đánh giá của những nhân vật chính có liên quan đến chính trị.
Tiểu thuyết của Modiano đều có tính chất rắc rối của sự đồng dạng, của làm thế nào có thể hướng dẫn được những kinh nghiệm trải qua của hiện thực qua con đường đi của quá khứ. Ám ảnh bởi những lỗi lầm đáng xấu hổ của thời kỳ nước Pháp bị Ðức Quốc Xã chiếm đóng mà trong đó chính cha của Modiano đã tham gia vào những hành vi ám muội, Modiano trở về với cái lý luận bàng bạc trong tất cả các tác phẩm của ông, từ cuốn sách này kế tiếp cuốn sách khác là tạo dựng dấu ấn hầu như đồng thể trong các tác phẩm: “Sau mỗi một tiểu thuyết, tôi đã có ấn tượng rằng đã tẩy sạch hết những ám ảnh. Nhưng tôi cũng tự biết tôi sẽ trở lại một lần rồi một lần nữa từ những chi tiết nho nhỏ, những suy tư vụn vặt đã thành một phần của bản thân tôi. Kết cuộc, chúng ta tất cả đều được xác định ở thời gian và nơi chốn mà nơi chúng ta sinh trưởng.” Ông viết chắc nịch về thành phố Paris, mô tả những thay đổi phát triển của đường phố, của nếp sống và cả của dân cư ở đó nữa.
Thành phố Paris trong tác phẩm của Patrick Modiano luôn luôn hiện diện và có lúc giống như vai trò không thể thiếu được của vóc dáng văn chương ông. Ông viết về Paris bằng chính tiềm thức sâu thẳm của lương tâm mình. Có sự ví von dù ông đã viết nhiều chục tác phẩm nhưng tựu chung chỉ là một tác phẩm duy nhất về Paris. Ông đã xử dụng nhiều tài liệu phát xuất từ thực tế đời thường, những bài báo, những cuộc phỏng vấn, những đoạn ghi chú, những cuộn băng thu thanh, thu hình để thành chất liệu sống thực để viết tiểu thuyết. Những cuốn truyện của ông thường có liên quan với nhau với một tâm trạng nhất quán. Chính sự thăng trầm đầy biến cố của thành phố Paris đã làm chất keo gắn bó và có người ví von ràng đó là cây cầu nối kết bố cục các tác phẩm với nhau.
Với ông, trong đời sống cá nhân đã sẵn một chủ định: “Tôi chưa bao giờ suy nghĩ mình sẽ có một nghề nghiệp khác. Tôi không có bằng cấp và cũng chẳng có chủ đích nào rõ rệt cả.”
Hầu như tất cả tác phẩm của Modiano được viết từ sự “loạn trí” bệnh hoạn. Trong tác phẩm Rue des Boutiques Obscures (Missing Person), nhân vật chính đã chịu đựng bịnh mất trí nhớ và đã du lịch từ Polynesia đến Rome với ý định liên lạc lại với quá khứ. Tiểu thuyết này cho rằng sự tìm kiếm căn cước bản thân mình trên thế gian này sẽ không khi nào chấm dứt nơi mà “cát đã giữ được dấu chân bước qua nhưng chỉ trong một khoảnh khắc mà thôi.”
Và trong “Du Plus Loin de L’Oubli” (Out of the Dark) người kể chuyện đã đề cập đến bóng phủ của những cơn mê tình ái của những năm thập niên 1960 với nhân vật người đàn bà bí ẩn. Mười lăm năm sau khi xa nhau, khi gặp lại nhưng cô gái đã thay đổi tên họ và từ chối cái quá khứ của mình. Vậy điều gì là chân thực và điều gì không tồn tại mà chúng ta đã nhìn thấy trong tiểu thuyết như một giấc mơ của cá tính Modiano trong những đoạn văn đầy nỗi ám ảnh và như một bi ca.
Chủ đề xoay quanh những ký ức đã được nhìn thấy rõ ràng trong kịch bản Dora Bruder, sau đó được xuất bản bằng Anh Ngữ là The Search Warrant. Ðây là một tác phẩm văn chương pha trộn nhiều thể loại: tiểu sử, tự truyện, tiểu thuyết trinh thám – nói về lịch sử của cuộc đời nhân vật chính là một cô bé 15 tuổi sống ở Ðông Aâu trong một gia đình Do Thái. Cô bé bị lôi khỏi nơi chốn an toàn mà cô ẩn núp và kết cuộc là bị giải đến trại tập trung Auschwitz khủng khiếp nhất của chế độ Nazi Ðức Quốc Xã. Như tác giả đã giải thích trong phần mở đầu tiểu thuyết, sự kiện làm cho tác giả thích thú đầu tiên về câu chuyện của Dora khi ông đọc tên của cô trong danh sách những người bị mất tích trong tháng 12 năm 1941 trên tờ nhật báo Pháp Paris Soir. Bị thôi thúc từ những cảm xúc của thời quá khứ, Modiano đi tìm trong danh sách những địa chỉ và bắt đầu từ những cuộc điều tra ấy, ông tìm kiếm trong ký ức. Ông viết từ những mảnh nhỏ đăng trên báo, tìm kiếm từ những niên giám điện thoại cũ xưa và thẩm định kỹ càng để kiếm cho được danh tính cũng như tính chất của đời sống bên ngoài trong biên giới của thành phố. Nhìn ngắm chân dung Dora Bruder một cách cẩn trọng, ông viết: “Tôi sẽ không bao giờ hiểu được cô bé này đã trải qua những thời khắc của một ngày, nơi mà cô ẩn trốn và đã trải qua tháng mùa đông của cuộc trốn thoát đầu tiên và vài tuần của mùa xuân khi cô thoát được lần thứ hai kế tiếp. Ðó là một bí ẩn của cô.” Modiano im lặng, một tiểu thuyết khổ hạnh, cũng như thêm cả tác phẩm Night Moves, đọc để chia sẻ cảm thông…
Tác phẩm thứ 26 của Patrick Modiano, “L’Horizon” xuất bản năm 2011, với người kể chuyện, Jean Bosmans, một con người mảnh dẻ yếu đuối đuổi bắt bóng ma của chính bà mẹ ông ta, trú ẩn trong chính tuổi trẻ của ông và cả những người mà ông đánh mất. Trong đó có Margaret le Coz, một người đàn bà trẻ ông đã gặp và đem lòng yêu thương vào thập niên 1960. Hai người cô đơn trải qua nhiều tuần lễ lang thang trên những ngã đường quanh co khúc khuỷu mà bây giờ đã quên lãng lâu lắm rồi của thành phố Paris như chạy trốn bóng quỷ dữ đe dọa. Một ngày, bỗng dưng, không một báo trước, Margaret lên một chuyến xe lửa và biến mất trong nỗi trống không của Jean Bosmans nhưng cũng biến mất khỏi ký ức của ông. Bốn mươi năm sau, ông nhìn lại mối tình đã biến mất. Tiểu thuyết này không chỉ tóm tắt phong cách cụ thể của Modiano mà còn đánh dấu bước đi mới của sự tìm kiếm nhân bản riêng ông, sau khi đã đi dạo trong huyền hoặc ở thành phố Berlin. “Ðó là thành phố của tuổi tôi” ông nói sau một thoáng im lặng trễ tràng để mô tả về Berlin – “hầu như là một phố thị mới toanh được xây dựng trên những tro bụi của chiến tranh thật là dài, những con đường như những hình tượng của môn học lượng giác vẫn còn mang những dấu vết của lịch sử. Nhưng nếu nhìn từ bên phải, thì vẫn còn có thể có những dấu vết của một nơi chốn hoang vu cổ xưa hiển hiện cụ thể. Những điều ấy là nguồn gốc của thế hệ chúng tôi. Những hình tượng nguồn cội đã cho chúng ta đứng dậy, qua những năm tháng, để thành một cổ thụ rất là kỳ thú của văn chương Pháp.”
Modiano đoạt giải Prix Goncourt năm 1978 với tác phẩm “Rue des Boutique Obscures” (Missing Person) và giải Grand Prix du Roman de L’academie Francaise năm 1972 với tiểu thuyết “Les Boulevards de Ceinture” Ông cũng đoạt giải Prix Mondial Cino Del Duca từ Institut de France vì những cống hiến suốt đời của ông năm 2010 và Austrian State Prize for European Literature năm 2011.
Ðuợc mệnh danh là “Marcel Proust của thời đại bây giờ” Modiano luôn luôn đi tìm chính cái tôi bản thể chính mình trong các tác phẩm. Nhân vật của ông khắc khoải tìm kiếm sự phân định giữa quá khứ và hiện tại và nhìn vào lịch sử để từ những biểu hiện đã có để giải thích sự tồn tại của cuộc sống. Với kinh nghiệm của ngày đã qua, để trở lại quá khứ và hướng vọng đến tương lai qua hiện tại lẫn lộn giữa những ký ức của quên và nhớ.
Trong tác phẩm Rue des Boutiques Obscures công việc trở về tìm lại nguồn gốc của mình trong nỗi băn khoăn không dứt về nỗi lo ngại bị mất đi chính những phần đời sống của chính mình. Nhân vật Guy Roland lần theo những dấu vết để lại của một người xa lạ đã mất tung mất tích từ lâu không phải chỉ để hành nghề thám tử tư mà còn chính là hành trình đi tìm lại cái tôi của chính mình. Có thể sau một thời gian dài, con người biệt tích ấy có thể là chính người hiện nay đang làm công việc truy tầm lại quá khứ. Modiano dùng những mảnh ký ức, ráp nối lại thành những vòng xoay chuyển, nhiều khi chập chờn, nhiều khi bàng bạc đã làm liên tưởng đến những câu hỏi và những vấn nạn của sự tự vấn. Là ai, chính đời sống này. Tôi sống thực đời tôi hay một người nào khác giả dạng? Tâm thức ấy tạo thành những ám ảnh làm nghi ngờ chính cái giây phút đang thực sự diễn ra của cuộc sống…
Trong “Les Boulevards de Ceinture” cũng là hành trình tìm kiếm của người đóng vai nhân vật chính từ sự dò tìm khởi đi từ dấu vết của chính người cha ruột của mình. Không phải chỉ đơn thuần là công việc căn cứ vào những cái còn để lại của một cuộc điều tra mà còn tạo dựng những biểu hiện ngầm chứa của ẩn dụ. Ðể thấy được sự thân cận của nội tâm con người ấy và phác họa được gần đúng quá khứ đã trải nghiệm ấy.
Thư ký thường trực của Hàn Lâm viện Thụy Ðiển phát biểu về Nhà văn vửa đoạt giải: “Patrick Modiano là một tên tuổi nổi danh ở Pháp nhưng không phải ở bất cứ nơi nào khác. Ông viết truyện thiếu nhi, viết phân cảnh điện ảnh nhưng chính yếu vẫn là tiểu thuyết. Chủ đề của ông là ký ức, nguồn gốc căn cước con người và thời gian.
Tác phẩm được nhiều người biết đến là Missing Person. Ðó là câu chuyện của một thám tử người đã đánh mất ký ức của mình và trong trường hợp cuối cùng là tìm kiếm được ai là người đã lần theo từng giai đoạn lịch sử để nhận diện chính xác căn cước,
Những tác phẩm của Modiano là những cuốn sách mỏng chừng 130 đến 150 trang, với sự luôn luôn khác biệt dù chung một chủ đề: ký ức, nỗi mất mát, căn cước con người, tìm kiếm. Nhưng quan trọng nhất vẫn là chủ đề về ký ức, căn cước con người và thời gian”
Tác phẩm của ông được dịch thuật với hơn 30 ngôn ngữ, riêng Anh ngữ cũng có những cuốn như Les Boulevards de Ceinture (Rings Road), La Ronde de Nuit (Night Rounds), Rue des Boutiques Obscure (Missing Person), Quarter Perdu (A Trace of malice), Catherine Certitude (Catherine Certitude), Voyage de Noce (Honeymoon), Du Plus Loin deL’oubli (Out of Dark), Dora Bruder (The Search Warrant). Tác phẩm đầu tay là La Place de L’étoile và tác phẩm mới nhất là Pour Que Tu Ne Le Perdes Pas dans Le Quarter xuất bản năm 2014.
Nguyễn Mạnh Trinh
Nguồn: Tác giả gửi


















